Lợi - hại của việc nâng tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài tại các TCTD
Dù đồng tình với việc nới rộng tỷ lệ sở hữu cho các nhà đầu tư ngoại, nhưng cũng có ý kiến lo ngại tình trạng sở hữu chéo gia tăng.
Theo các chuyên gia, để thực hiện tái cơ cấu thì những ngân hàng yếu kém ở nước ta rất cần sự tham gia của các tổ chức tài chính, ngân hàng lớn cả trong nước và nước ngoài. Tuy nhiên, việc giới hạn mức đầu tư tối đa 30% như hiện nay khiến nhà đầu tư ngoại khó triển khai chuyển giao công nghệ và quản trị hiện đại cho ngân hàng trong nước. Điều này ít nhiều làm các nhà đầu tư ngoại nản lòng và đã có những nhà đầu tư rút vốn khỏi ngân hàng trong nước.
Nhưng cũng có ý kiến cho rằng, hiện chưa nên mở rộng cánh cửa đối với nhà đầu tư nước ngoài. Bởi sự mở cửa quá nhanh có thể làm tổn thương thị trường. Giải pháp hợp lý là từ nay đến thời hạn phải mở cửa hoàn toàn lĩnh vực tài chính theo cam kết gia nhập WTO (năm 2020) cần thực hiện mở cửa theo lộ trình. Tỷ lệ sở hữu cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài tại tổ chức tín dụng trong nước nên điều chỉnh tăng dần để phù hợp với tình hình thực tiễn.
Thực tế cũng cho thấy, việc nới room quá rộng có thể tạo cú sốc. Trong năm 2007, khi nước ta bắt đầu gia nhập WTO, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đăng ký tăng nhanh, lên tới trên 60 tỷ USD và giải ngân cũng khá lớn. Nước ta đã gặp áp lực lạm phát cùng với tín dụng trong nước tăng nhanh tới 53% trong năm 2007 và lên đến 23% trong năm 2008. Bài học này cho thấy, cần phải có những kiểm soát dòng vốn ngoại, đặc biệt trong bối cảnh dòng vốn hay việc quản lý vốn cũng gặp không ít khó khăn. Bởi thị trường tài chính hiện nay phức tạp hơn, rộng hơn, tinh vi hơn. Từ thực tế này, tiến sỹ Vũ Đình Ánh đề xuất, nên phân loại sức khỏe của các ngân hàng nội, lấy đó làm căn cứ để nâng tỷ lệ sở hữu cho nhà đầu tư ngoại cho từng đối tượng ở các mức độ khác nhau.
Dù đồng tình với việc nới rộng tỷ lệ sở hữu cho các nhà đầu tư ngoại, nhưng cũng có ý kiến lo ngại tình trạng sở hữu chéo gia tăng. Trong khi, sở hữu chéo đang là nỗi lo chưa kiểm soát được, gây hại cho nền kinh tế. Song, đa số chuyên gia kinh tế cho rằng, đây là điều không đáng ngại, bởi các nước xảy ra tình trạng này vẫn kiểm soát được. Các nhà đầu tư ngoại khi đầu tư vào nước ta đều phải chịu sự giám sát của Ngân hàng Trung ương của nước họ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Hơn nữa, nếu chọn đối tác nước ngoài có uy tín trên thế giới và khu vực, có năng lực tài chính, để bán vốn ngân hàng nội, thì sẽ kiểm soát được tình trạng sở hữu chéo. Điều đáng lo hơn là tình trạng sở hữu chéo của chính các nhà đầu tư trong nước. Các ông chủ ngân hàng đồng thời cũng là các ông chủ doanh nghiệp, tập đoàn lớn.
Theo Quang Minh