Cùng lúc, một số chuyên gia đặt vấn đề cần phá giá VND trong năm nay, thậm chí “đều đặn” những năm tới…
Lịch
sử đang lặp lại. Trước kỳ nghỉ Tết Nguyên đán năm ngoái, giá USD mua
vào của các ngân hàng thương mại lao dốc, thấp hơn giá bán ra trên dưới
300 VND. Vài ngày gần đây, mức độ biến động không quá lớn, song giá USD
có những bước giảm đáng chú ý, nhất là giá mua vào.
Nguồn cung
lớn từ doanh nghiệp và dân cư được nhìn nhận ở nhu cầu chuyển đổi VND
dồn trả cho lương, thưởng và chi tiêu cuối năm. Từ đầu tuần đến nay, cao
điểm có ngày Ngân hàng Nhà nước mua ròng tới khoảng 300 triệu USD. Dự
trữ ngoại hối chắc chắn tiếp tục tăng lên đáng kể, sau khi đã tăng hơn
gấp đôi trong năm 2012 so với 2011.
Trong bối cảnh đó, một số
chuyên gia cùng nêu khuyến nghị cần phá giá VND từ 3 - 4% trong năm nay,
nhịp độ như vậy trong những năm tới. Nguyên do, VND đang bị định giá
cao hơn USD khoảng 20 - 21%; sự ổn định của tỷ giá gần hai năm qua như
“thòng lọng” đang siết các doanh nghiệp xuất khẩu, hay nói cách khác là
phá giá VND để hỗ trợ xuất khẩu; nếu phá giá VND 4%/năm trong 3 năm liên
tục, thì dự trữ ngoại hối sẽ tăng gấp đôi…
Nếu phá giá như vậy, có thể đó là những cái cơ bản sẽ được, song từ góc nhìn của người viết, cũng sẽ có nhiều cái giá phải trả.
Thứ nhất, việc điều chỉnh tỷ giá sẽ làm gia tăng lạm phát và cản trở những nỗ lực ổn định kinh tế vĩ mô của Chính phủ.
Ước
tính theo mô hình định lượng mà giới chuyên môn thường sử dụng, nếu phá
giá VND 1% sẽ tác động làm tăng chỉ số CPI trong ngắn hạn khoảng 0,65%
với độ trễ khoảng 3 tháng (trong điều kiện các nhân tố khác không đổi).
Nếu tỷ giá USD/VND bị điều chỉnh ở mức 3 - 4% sẽ gián tiếp làm tăng CPI ở
mức 1,95 - 2,60% với độ trễ khoảng 3 tháng.
Tháng 1/2013, CPI đã
tăng 1,25%. Tháng 2, một số dự báo nghiêng về khả năng sẽ tăng khoảng
2%. Nếu bồi thêm tác động từ tăng tỷ giá như khuyến nghị trên, mục tiêu
kiềm chế lạm phát năm nay thấp hơn năm ngoái sẽ càng khó.
Thứ hai,
nếu điều chỉnh với nhịp độ 3 - 4% hàng năm như vậy sẽ làm gia tăng kỳ
vọng tỷ giá và phá vỡ những nỗ lực của Ngân hàng Nhà nước trong việc
bình ổn tỷ giá và tâm lý thị trường; niềm tin đối với giá trị VND dễ bị
mài mòn.
Với nhà điều hành, hẳn khó để quên những xáo trộn của tỷ
giá trong những năm 2008 - 2011, mà nổi bật là yếu tố tâm lý, tình
trạng găm giữ ngoại tệ căng thẳng và đô la hóa phức tạp trong nền kinh
tế. Nay, đám than đó vạc lửa, làn gió khá mạnh 3 - 4% có thể thổi bùng
nó trở lại, tạo ra một kỳ vọng mới và dễ gây bất ổn thị trường ngoại
hối.
Thứ ba, việc điều chỉnh tỷ giá sẽ gia tăng mức độ nợ công của nền kinh tế.
Theo
số liệu của một số tổ chức quốc tế và trong nước, tính đến 31/12/2012,
nợ công so với GDP của Việt Nam đã ở ngưỡng 55,4%. Do đó, việc điều
chỉnh tỷ giá USD/VND sẽ làm gia tăng gánh nặng nợ của Chính phủ và ảnh
hưởng không nhỏ tới an toàn tài chính quốc gia và tính bền vững của ổn
định kinh tế vĩ mô.
Thứ tư, việc phá giá VND thực tế có hỗ trợ cho xuất khẩu, cân bằng cán cân thương mại như thế nào cũng cần được xét thêm.
Phá
giá VND sẽ kích thích xuất khẩu, nhưng cũng cần lưu ý rằng Việt Nam là
một nền kinh tế nhỏ với độ mở lớn. Có quá nhiều mặt hàng thiết yếu phục
vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước phải nhập khẩu mà sản xuất trong nước
chưa đủ sức thay thế; trên 70% hàng hóa nhập khẩu là phục vụ cho hoạt
động sản xuất trong nước và xuất khẩu, khi phá giá VND sẽ làm giá cả
hàng hóa nhập khẩu tăng, nhập siêu có thể trầm trọng trở lại như trước.
Tham
khảo tính toán theo mô hình định lượng của giới chuyên môn thời gian
qua cho thấy, nếu phá giá VND so với USD thì sẽ tác động làm giảm giá
xuất khẩu thấp hơn so với mức độ làm tăng giá nhập khẩu.
Ở đây có
một thực tế, suốt từ năm 1994 đến nay, Việt Nam là nước nhập siêu triền
miên với mức độ lớn. Song, chính trong quãng ổn định tỷ giá USD/VND gần
hai năm qua, xuất siêu đã trở lại, năm 2012 và tiếp tục thể hiện đầu
năm 2013, cùng tốc độ tăng trưởng khá cao của kim ngạch xuất khẩu.
Dễ
nhận thấy, thay vì phá giá VND mạnh và liên tiếp, hai năm qua Ngân hàng
Nhà nước lại chọn hướng hỗ trợ xuất khẩu bằng kênh tín dụng. Năm 2011,
tín dụng cho xuất khẩu tăng trưởng đột biến với 58%, năm 2012 cũng cao
hơn bình quân ngành với 14%; lãi suất cho vay các doanh nghiệp xuất khẩu
được áp trần thấp hơn hẳn so với cho vay thông thường… Ngoài ra, hỗ trợ
xuất khẩu còn có ở chính sách thuế, chính sách thu hút đầu tư nước
ngoài chứ không chỉ dồn vai tỷ giá.
Thứ năm, nếu phá giá
VND như kiến nghị trên của một số chuyên gia, niềm tin và dòng vốn đầu
tư nước ngoài có thể bị ảnh hưởng, bởi họ bị “móc túi” khi rót vốn vào
Việt Nam.
Chỉ riêng ở dòng vốn gián tiếp, những năm 2008 - 2011,
đã có quá nhiều điển hình các quỹ đầu tư thua đơn, thiệt kép vì tăng tỷ
giá. Tỷ suất lợi nhuận không còn quá hấp dẫn để bù đắp cho rủi ro tỷ giá
cỡ gần 10% mỗi năm...
Những tháng cuối năm 2012 và đầu 2013, thị
trường chứng khoán đã có dấu hiệu khởi sắc trở lại. Diễn biến trên sàn
ghi nhận dấu ấn đậm nét của khối ngoại. Họ có những lý do để sôi động
hơn, trong đó chắc chắn có niềm tin và kỳ vọng vào một tỷ giá USD/VND ổn
định. Nay, nếu phát đi một thông điệp phá giá VND, khá mạnh như khuyến
nghị 3 - 4% nói trên (và có thể lớn hơn với hiệu ứng khó kiểm soát của
tâm lý đầu cơ, găm giữ nếu bị kích hoạt trở lại), sẽ là một tác động
tiêu cực đối với họ.
Tương tự là với vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài. Việt Nam liệu có là điểm đến hấp dẫn để tạo ra những nhà xuất
khẩu hàng chục tỷ USD khi mà chi phí đều đặn đội thêm ít nhất 3 - 4% mỗi
năm chỉ riêng điều chỉnh tỷ giá?
Trước những tác động như vậy, nhà điều hành có lẽ sẽ phải tính toán thận trọng trước những khuyến nghị phá giá VND.
Theo Minh Đức
Vneconomy