Theo số liệu thống kê từ
các ngân hàng Thụy Sĩ, nguồn cung ứng vàng chủ yếu cho thị trường Việt nam và trong giai đoạn 1990-2011 trung bình đã nhập xấp xỉ
500 tấn vàng, trong đó năm thấp nhất là 5 tấn, năm cao nhất là 80 tấn.
Thông tin từ Hội đồng
Vàng thế giới cho thấy lượng vàng nhập về Việt Nam trong những năm qua rất lớn,
năm 2011 là 87,8 tấn; năm 2012 là 75,2 tấn và năm 2013 được dự báo sẽ nhập 73 tấn. Ngoài ra, nguồn vàng nhập
khẩu từ một số nước khác như Úc, Hồng Kong và từ các con đường tiểu ngạch hoặc
không chính thống. Số vàng nhập trung bình giai đoạn này đã nhập 25 tấn /năm. Số
vàng nhập dùng để gia công chế tác trang sức rất ít, mà chủ yếu được gia công
thành vàng SJC và một số thương hiệu khác. Đồng thời cũng trong thời
gian đó, lượng vàng miếng xuất tối đa cũng chỉ đạt 20 tấn trong các năm
2007-2009. Còn lượng vàng gửi tiết kiệm theo số liệu chính thức được công bố từ
các NHTM Việt Nam huy động khoảng 100 tấn.
Như vậy, theo ước tính tại
Việt nam, số lượng vàng vật chất nằm trong dân khoảng 400-500 tấn. Nếu theo giá
vàng tại thời điểm này trên thị trường, thị lượng vàng nằm trong dân có giá trị
giao động từ 16-18 tỷ USD tương đương 16% GDP, xấp xỉ lượng dự trữ ngoại tệ thời
kỳ trung bình trước đây. Tỷ lệ này quá lớn nếu so với các nước có dự trữ vàng lớn
nhất thế giới cũng chưa tới 3%. Rõ ràng đây là một nguồn lực tài chính khổng lồ
hiện đang nằm trong dân, chưa được huy động để sử dụng có hiệu quả góp phần thức
đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
Thừa nhận nguồn lực vàng trong
dân là rất lớn, từ kinh nghiệm của các nước việc huy động vàng trong dân là
không dễ, cần hết sức thận trọng và phải đặt vấn đề an toàn tài sản cho người
dân, an toàn hệ thống tài chính và sử dụng nguồn lực huy động này lên hàng đầu.
Muốn huy động
được vàng trong dân, trước hết cần phải đảm
bảo được các yếu tố ổn định về chính sách vĩ mô lẫn điều kiện thực thi nhất
quán, trên cơ sở đảm bảo hài hòa lợi ích của Nhà nước, của cả tổ chức đầu tư,
kinh doanh vàng cũng như của người gửi vàng.
Về cách thức huy động: Sau khi ổn
định trạng thái vàng của các NHTM, NHNN cần thực hiện chủ trương tiếp tục huy động
vàng trong dân. Lần này không để NHTM kinh doanh, mà để NHNN sẽ phát hành chứng
chỉ vàng dài hạn.
Về điều kiện thực thi cần đảm bảo tính thanh khoản tốt cho chứng chỉ huy động vàng và hệ thống ngân hàng luôn sẵn sàng có nguồn vàng đáp ứng nhu cầu rút vàng của dân khi đến, hay trong những trường biến động bất thường. Quy trình, thủ tục phải khoa học, chặt chẽ từ khâu phát hành chứng chỉ, nhận gửi, trả vàng, nhưng phải đơn giản, thuận tiện. Chứng chỉ vàng có thể cầm cố, thế chấp, cho vay, chuyển nhượng,... và có thể lâu dài chứng khoán hóa, đuợc phép giao dịch trên thị trường mở và thị trường thứ cấp.
Từ kinh nghiệm của các nước,
chúng ta có thể rút ra những bài học trong việc quản lý thị trường vàng là việc
thay thế người dân nắm giữ vàng vật chất thì họ nắm giữ chứng chỉ vàng. Việc
sử dụng chứng chỉ vàng có những ưu điểm là an toàn, tiện lợi, không sợ vàng giả,
vàng thiếu tuổi, thiếu trọng lượng, không mất phí gia công dập ra vàng miếng,...Về
vĩ mô, nền kinh tế sẽ đuợc lợi vì nguồn vàng trong dân tập trung về ngân hàng,
góp phần tăng dự trữ quốc gia và tiết kiệm đuợc USD, vì không cần nhập khẩu
hàng mấy chục tấn vàng vật chất mỗi năm.
Trước thực trạng hiện nay, nhiều NHTM còn bộc lộ một số yếu kém trong quản trị, cũng như chưa đủ mức độ tín nhiệm, do đó chứng chỉ huy động vàng phải do chính NHNN phát hành. Chứng chỉ vàng có các loại mệnh giá như: 1 chỉ, 2 chỉ,5 chỉ; 1 lượng, 2 lượng, 5 lượng,
10 lượng,... Đặc điểm của vàng huy động thông qua phát hành chứng chỉ là người
gửi vàng không được phép rút vàng trước hạn, thay vì hình thức tiết kiệm như
trước đây. Do vậy, vốn vàng có thể đuợc sử dụng làm một nguồn lực dài hạn cho đầu
tư phát triển.
Tuy nhiên, NHNN là cơ quan quản lý Nhà nước nên không tực
tiếp đứng ra, mà ủy quyền cho các NHTM thực hiện với vai trò đại lý phát hành
chứng chỉ. Ngược lại NHNN phải chiết khấu hoa hồng cho NHTM để bù đắp các chi
phí kiểm định, cất giữ, vận chuyển,...
Với việc huy động vàng trong dân
qua việc phát chứng chỉ vàng, một vấn đề đặt ra là làm thế nào để đảm bảo được
an toàn lượng tài sản khổng lồ của dân và của Nhà nước? Bởi giá vàng thế giới
diễn biến phức tạp và thay đổi liên tục, sự lao đao của một số cá nhân lãnh đạo
NHTM trong việc bán khống một số vàng lớn thời gian qua đã đem lại món nợ khổng
lồ cho họ và NHTM của họ là một bài học lớn cho cả hệ thống NHTM và NHNN trong
việc quản lý thị trường vàng tương lai. Muốn thực hiện được phương thức huy động
này, NHNN cần có những chuyên gia giỏi phân tích và đưa ra dự báo về giá vàng
trong thời gian tới và cần sử dụng các công cụ bảo hiểm rủi ro do biến động của
giá vàng thế giới. Đây là điều cần thiết phải có và phải thực hiện đối với
NHNN. Nếu không chúng ta sẽ phải trả giá cho những sai lầm tính toán của các
chuyên gia.
Trên đây là một số ý kiến của PGS.TS Ngô
Trí Long trong tham luận về quản lý thị trường vàng tại Diễn đàn kinh tế mùa
Thu 2013 do chúng tôi trích lược từ Kỷ yếu
Nguyễn Hằng