Thực trạng hoạt động giám sát an toàn tài chính vĩ mô tại Việt Nam thời gian qua (Kỳ 2)
Với bất kỳ một quốc gia nào, hoạt động của hệ thống ngân hàng luôn là huyết mạch của nền kinh tế và sự ổn định, lành mạnh của hệ thống ngân hàng giữ vai trò trọng yếu trong việc ổn định và phát triển của nền kinh tế.
Theo WB, cơ cấu cổ đông phức tạp đã gây ra những quan ngại sâu sắc về xung đột lợi ích và tính minh bạch trong các khoản vay, dẫn đến tình trạng “lách” các quy định an toàn về giới hạn cấp tín dụng.
Trước tình trạng trên, Chính phủ và NHNN đã có nhiều biện pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động ngân hàng, trong đó tập trung vào xử lý điểm nghẽn lớn nhất là nợ xấu và sở hữu chéo, song chưa mang lại nhiều dấu hiệu tích cực. Từ năm 2003, Công ty Mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp (DATC) được thành lập để giúp xử lý các khoản nợ xấu của doanh nghiệp, nhưng đến nay hoạt động còn mờ nhạt và các tài sản còn lại chủ yếu dưới dạng hàng tồn kho, các khoản phải thu và khoản đầu tư kém thanh khoản. AMC của NHTM hiện cũng hoạt động chưa thực sự hiệu quả.
Theo báo cáo, việc thành lập Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng (VAMC) được đánh giá là bước tiến đáng kể để giải quyết nợ xấu, song, chiến lược này chưa rõ ràng, do việc xử lý nợ qua VAMC còn phụ thuộc vào sự hấp dẫn của công ty này với các ngân hàng và tính chủ động của VAMC trong việc xử lý nợ xấu.
Việc quy định phải trích lập dự phòng 20% và không được tính vào tài sản sinh lời khi các ngân hàng mua trái phiếu của VAMC đã hạn chế đối tượng bán nợ, chỉ có những ngân hàng gặp khó khăn nghiêm trọng về thanh khoản mới quan tâm đến việc bán nợ xấu cho VAMC. Thêm vào đó, nếu các tài sản này được chuyển nhượng và lưu kho mà không có sự quản lý hoặc giải quyết một cách chủ động thì giá trị sẽ mất theo thời gian. Như vậy, trong bất kỳ trường hợp nào, VAMC sẽ chỉ giải quyết được một phần nợ xấu.
Trên thực tế, hệ thống giám sát tài chính tại Việt nam trong thời gian qua chỉ chủ yếu tập trung vào công tác giám sát an toàn vi mô trên cơ sở thiên về giám sát tuân thủ hơn là giám sát dựa trên rủi ro. Trong khi đó, thị trường tài chính đang phát triển nhanh chóng, phức tạp cả về quy mô lẫn cấu trúc, với các hoạt động tài chính đan xen giữa các khu vực ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm và trong môi trường kinh tế vĩ mô nhiều biến động.
Việc thanh tra, giám sát thị trường tài chính được thực hiện theo phương thức các cơ quan quản lý đưa ra quy định gì thì yêu cầu các định chế thực hiện đúng như vậy. Điều này có thể gây ra rủi ro từ nhiều khía cạnh. Trong số đó, không loại trừ bản thân chính sách mà các định chế tài chính phải tuân theo chưa chắc đã tạo ảnh hưởng tích cực. Quy định của chúng ta có khi quá ngặt nghèo hoặc lỏng lẻo, việc chấp hành có thể khiến tình hình tài chính xấu hơn. Thậm chí, những rủi ro khác có thể xuất phát ngay từ nội tại các tổ chức, định chế tài chính hay từ nền kinh tế. Những điều này hiện vẫn chưa được xem xét trong cách quản lý, giám sát tài chính.
Nhìn vào diễn biến trên thị trường tài chính Việt Nam, có thể thấy rằng, sau hơn hai thập kỷ cải cách tuy đã có nhiều tiến bộ đáng ghi nhận nhưng vẫn tồn tại nhiều rủi ro, đặc biệt, trong bối cảnh hiện nay, là tiềm ẩn các rủi ro chéo giữa khu vực ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm và các rủi ro mang tính hệ thống từ sự bất ổn của môi trường kinh tế vĩ mô cũng như từ các cú sốc bên ngoài.
Giám sát an toàn vĩ mô tập trung theo dõi khủng hoảng tài chính phát sinh như thế nào từ các rủi ro thông thường, các yếu tố rủi ro kinh tế vĩ mô và các tác động lẫn nhau giữa khu vực tài chính và khu vực kinh tế thực. Để cho việc giám sát an toàn vĩ mô có hiệu quả, việc giám sát chặt chẽ các diễn biến của nền kinh tế trong nước và quốc tế cũng như các diễn biến thị trường tài chính trong nước và quốc tế là vô cùng cần thiết.
Những yếu kém trong giám sát tài chính là một nguyên nhân chính dẫn đến những bất ổn tài chính và khủng hoảng tài chính ở các nước thuộc mọi trình độ phát triển khác nhau trong hai thập niên gần đây. Tại Việt Nam, trong thời gian tới, tái cơ cấu hệ thống giám sát thị trường tài chính là một lĩnh vực quan trọng quyết định thành bại của công cuộc tái cơ cấu kinh tế, trong đó có tái cơ cấu hệ thống tài chính và doanh nghiệp nhà nước. Trong ngắn và trung hạn, cùng với việc cải tổ hệ thống kế toán - kiểm toán, trọng tâm của tái cơ cấu hệ thống giám sát nên đặt vào hoàn thiện giám sát tuân thủ (các chuẩn mực CAMEL/Basel), chuyển dần sang giám sát rủi ro, giám sát an toàn tài chính vĩ mô (các mô hình định lượng như Mô hình cảnh báo sớm (EWS), Stress Test (ST),…), và xây dựng các quy chuẩn về giám sát tập đoàn tài chính.
Ngoài ra, các công cụ phục vụ giám sát an toàn vĩ mô và giám sát an toàn vi mô, nhất là đối với giám sát dựa trên rủi ro còn chưa đầy đủ, chuẩn hóa và thống nhất với của quốc tế. Bản thân các cơ quan thanh tra giám sát tài chính cũng còn nhiều bất cập về nhân lực, phương tiện kỹ thuật và công nghệ thu thập, xử lý thông tin; các mô hình phân tích định lượng, cảnh báo, kiểm định rủi ro cho cả hệ thống tài chính và cho từng định chế tài chính còn ít được ứng dụng phục vụ cho hoạt động giám sát từ xa.
Với bất kỳ một quốc gia nào, hoạt động của hệ thống ngân hàng luôn là huyết mạch của nền kinh tế và sự ổn định, lành mạnh của hệ thống ngân hàng giữ vai trò trọng yếu trong việc ổn định và phát triển của nền kinh tế. Sự tăng trưởng kinh tế nhanh, đặc biệt là ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại đã thúc đẩy hệ thống ngân hàng phát triển nhanh cả về qui mô và chất lượng dịch vụ.
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển nhanh đó, hệ thống ngân hàng tại Việt nam đang tiềm ẩn nhiều yếu kém và rủi ro: rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản cao; tính ổn định, hiệu quả hoạt động và khả năng cạnh tranh chưa cao; năng lực quản trị còn nhiều bất cập. Ngoài ra, nhóm lợi ích và sở hữu chéo giữa các ngân hàng lớn làm cho tính lệ thuộc lẫn nhau và rủi ro hệ thống cao. Do vậy, nếu những rủi ro và yếu kém này không được xử lý kịp thời sẽ tác động xấu đến ổn định kinh vĩ mô và hệ thống tài chính quốc gia. Vì vậy, việc tái cấu trúc hệ thống ngân hàng và các tổ chức tài chính là cấp thiết để tránh sự đổ vỡ của hệ thống ngân hàng và sự đổ vỡ của nền kinh tế.
Thực trạng phát triển khu vực tài chính tại Việt Nam trong thời gian qua cho thấy, trước khủng hoảng 2008, việc giám sát an toàn vĩ mô chưa thực sự được chú trọng thể hiện qua việc một loạt các vấn đề liên quan đến giám sát an toàn vĩ mô chưa được qui định rõ tại các văn bản của Nhà nước. Đó là sự thiếu vắng các nội dung như: mục tiêu, khuôn khổ, công cụ của chính sách an toàn vĩ mô, trách nhiệm và cơ chế phối hợp trong việc thực hiện chính sách an toàn vĩ mô của các cơ quan trong mạng lưới an toàn tài chính (NHNN, Bộ tài chính, Bộ Kế hoạch & Đầu tư, Bảo hiểm tiền gửi).
Trước đây, NHNN cũng đã xây dựng báo cáo giám sát vĩ mô. Báo cáo này được xây dựng hàng quý, mô tả những biến động lớn và những xu hướng cơ bản của hệ thống ngân hàng, phân tích mối quan hệ của những biến động và xu hướng với những biến động kinh tế, thay đổi môi trường cạnh tranh và những thay đổi pháp lý hoặc các qui định. Đồng thời, báo cáo đưa ra các khuyến nghị về kinh tế, môi trường cạnh tranh hay pháp lý nhằm thúc đẩy những xu hướng phát triển tốt và hạn chế những xu hướng phát triển xấu. Tuy nhiên báo cáo này cũng chưa thể coi là một báo cáo giám sát an toàn vĩ mô theo thông lệ quốc tế vì báo cáo được xây dựng trên cơ sở phân tích một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô và việc kiểm tra sức chịu đựng của hệ thống chưa được tiến hành để đưa vào báo cáo.
>>> Thực trạng hoạt động giám sát an toàn tài chính vĩ mô tại Việt nam thời gian qua (kỳ 1)
TS. Bùi Quang Tín