Nhà nước chỉ độc quyền 2 cái. Thứ nhất là độc quyền xuất nhập khẩu vàng. Thứ hai là độc quyền thương hiệu vàng - TS. Võ Trí Thành, Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu và Quản lý Kinh tế Trung ương cho biết.
NHNN muốn làm gì?PV: Một trong những phương thức để quản lý thị trường vàng được NHNN sử dụng là tổ chức các phiên đấu thầu. Tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng đây là một hình thức để NHNN kinh doanh vàng thì đúng hơn. Xin ông cho biết quan điểm của mình về vấn đề này?
TS. Võ Trí Thành:Đấu thầu vàng được tổ chức trước mắt là nhằm đáp ứng nhu cầu của các ngân hàng thương mại phải tất toán vàng. Đó là nhu cầu thực.
Còn về kỹ thuật và cách chơi, NHNN không thể kéo ngay lập tức giá vàng trong nước sát với giá vàng thế giới. Sự bình ổn phải dần dần và NHNN còn phải đảm bảo dự trữ ngoại hối.
Còn ngân hàng thương mại, trong bối cảnh mà giá vàng thế giới đang giảm nhanh thì họ biết câu chuyện tất toán đấy và việc tổ chức đấu thầu thường xuyên của NHNN sẽ khiến họ phải chọn thời điểm để mua vào sao cho phù hợp.
PV: Ngay khi NHNN bắt đầu can thiệp thị trường vàng, các chuyên gia và dư luận đã lên tiếng về sự độc quyền của NHNN. Ông có đánh giá gì về nhận định này?
TS. Võ Trí Thành:Đối với vấn đề này, tôi muốn đề cập đến 2 việc.
Thứ nhất, quyền sở hữu vàng của người dân được đảm bảo. Thời điểm mua, bán lúc nào là của người dân. Quyền giữ lại, cho đi cũng là của người dân, Nhà nước hoàn toàn bảo hộ quyền đấy.
Cho nên khi người dân mua bán tại một thời điểm rồi thua lỗ mà đổ hoàn toàn tại Nhà nước thì chưa hẳn đúng, chỉ đúng 30% thôi. NHNN không thể “bắt” người dân phải mua bán, chỉ buộc các ngân hàng thương mại phải tất toán theo chính sách thôi.
Thứ hai, tôi muốn đính chính lại vì rất nhiều người nghĩ còn chưa đúng là NHNN độc quyền kinh doanh vàng. Nghị định 24 không nói như vậy.
Nhà nước vẫn cho kinh doanh vàng, chỉ khác là điều kiện chặt chẽ hơn trước khi có Nghị định 24. Trước đây chúng ta có hàng chục nghìn điểm kinh doanh vàng (miếng), bây giờ là khoảng 2.000 điểm kinh doanh vàng. Phải có một số điều kiện và những điều kiện đó có thể thay đổi.
Nhưng nói Nhà nước độc quyền kinh doanh vàng là chưa đúng. Nhà nước không độc quyền kinh doanh. Nếu độc quyền thì người dân chỉ có thể mua bán với Nhà nước, hoặc Nhà nước uỷ quyền cho 1 đơn vị nào đó.
Nhà nước chỉ độc quyền 2 cái. Thứ nhất là độc quyền xuất nhập khẩu vàng. Thứ hai là độc quyền thương hiệu vàng. Có một sự nhầm lẫn ở đây. Đáng lẽ ra nên dùng thương hiệu SBV nhưng chúng ta lại dùng SJC. Cái thương hiệu SJC này không còn là của công ty SJC kinh doanh vàng hiện nay (nói thêm, SJC chưa phải là vàng (miếng) quốc tế, cho nên NHNN giả dụ có xuất vàng SJC thì cũng chỉ được xem là vàng nguyên liệu).
Ý đồ ở đây là vàng miếng là vàng tiền, hoặc rất gần tiền; có thể sử dụng gần như tiền. Còn vàng nữ trang là vàng khá xa tiền. Khái niệm ở đây chỉ là tương đối, không phải thật tách biệt, nên một số hội thảo vẫn tranh cãi quy định thế nào là vàng miếng?
Về ý tưởng, tuy không tách biệt rõ, nhưng vàng nữ trang cho tự do kinh doanh, Nhà nước chỉ kiểm soát chất lượng, bảo vệ người tiêu dùng.
Còn vàng miếng là rất gần tiền; và vì vậy, chỉ Nhà nước mới sản xuất, cho nên mới đặt vấn đề NHNN độc quyền gắn sản xuất với thương hiệu vàng nói trên. “Tiền” này được lưu thông, có điều kiện thì kinh doanh.
Còn việc Nhà nước mua và bán vàng theo đấu thầu cũng giống như Ngân hàng Trung ương với tư cách là “người cho vay cuối cùng”. NHNN can thiệp thị trường là ở chỗ đấy. Còn thị trường mua bán “thoải mái”. Khi thấy xáo động thì NHNN có thể bán ra, mua vào theo con mắt đánh giá của mình. So sánh có thể khập khễnh, song cũng như cung tiền đồng, nhiều quá thì NHNN thu về, ít quá thì NHNN bơm ra.
Nhưng mục tiêu của NHNN là muốn làm gì? Về lâu dài là giảm mức độ “vàng hoá” trong nền kinh tế; nói vui là để khi cưới xin cô dâu không còn quá quan tâm đến vàng.
Để dần dần người dân không coi vàng là tiền nữa, chỉ coi như một tài sản tích trữ, lúc cần thì bán lấy tiền, như một loại hàng hoá, tài sản chứ không phải là tiền. Để vàng tiền trong tương lai chỉ còn là một phần của dự trữ ngoại hối của quốc gia, như tại nhiều nước khác. Ý đồ lâu dài của chúng ta là như vậy.
PV: Đấy là ý đồ trong tương lai, còn với thực tế đang diễn ra, ông có đánh giá gì về vai trò của NHNN trong việc quản lý thị trường vàng?
TS. Võ Trí Thành:Mục tiêu có nhiều; trước hết liên quan đến việc bảo toàn dự trữ ngoại hối.
Ví dụ như, chẳng hạn, hôm nay NHNN có 30 tỷ USD nhưng ngày mai lại tụt giảm nhiều thì có thể có vấn đề. Lưu ý là khi NHNN bán vàng (như qua đấu thầu) thì sẽ thu lại tiền đồng. Tiền đồng không nằm trong dự trữ ngoại hối.
Về mặt kỹ thuật, nếu NHNN muốn giữ nguyên dự trữ ngoại hối thì phải can thiệp thị trường ngoại hối để mua một lượng ngoại tệ bù vào. Đây là mặt khác của câu chuyện lãi, lỗ thuần túy.
Vấn đề thứ hai gắn với vàng là tỷ giá ngoại hối và cán cân thanh toán quốc tế. Vì gắn với vàng là câu chuyện xuất, nhập vàng, dù là vàng nguyên liệu, và đi cùng là dòng ngoại tệ và quan hệ với tỷ giá.
Hơn nữa, khi NHNN bán vàng là rút nội tệ về, còn mua vàng là ném đồng nội tệ ra. Điều này lại liên quan đến cung tiền (nội tệ) và câu chuyện kiểm soát cung tiền, một biến số có thể tác động đến ổn định kinh tế vĩ mô, nhất là khi cung tiền có biến động đáng kể. Và NHNN lại phải sử dụng những công cụ tiền tệ để bơm hút đồng nội tệ để đảm bảo cung tiền ấy gắn với mục tiêu kinh tế vĩ mô mình đặt ra, chẳng hạn về lạm phát…
Thế nên câu chuyện này không đơn giản. Đó không chỉ đơn thuần là về vàng và thị trường vàng. Nó còn gắn với thị trường ngoại hối, cán cân thanh toán quốc tế, tỷ giá và kiểm soát cung tiền của NHNN.
Đừng chờ đợi một chính sách mà tất cả đều có lợi
PV: Theo phân tích của ông, NHNN không độc quyền kinh doanh vàng mà chỉ độc quyền xuất nhập khẩu vàng và thương hiệu vàng. Vậy sự độc quyền này, theo ông, liệu có vì lợi ích của một nhóm người nào đó?
TS. Võ Trí Thành:Trong một xã hội đa chiều như hiện nay, đừng vội phản đối lại một suy luận có tính logic nào đó, và cái đó càng cho thấy vai trò minh bạch hoá thông tin và nâng cao khả năng giải trình của Nhà nước, của NHNN.
Lợi ích nhóm là một thực tế, dễ có ở đâu đó. Và người ta thường gắn lợi ích nhóm với những dòng tiền lớn. Ngoài ra, chúng ta cũng nên hiểu rằng không có một chính sách nào là hoàn hảo. Cái chính là cái tâm của người làm chính sách, ý đồ và lợi ích chung cho đất nước này.
Còn nếu đi xé nhỏ ra thì có thể có nhóm được lợi nhiều, có người được lợi ít, thậm chí là có người lợi, có người bị thiệt hại. Cho nên suy luận logic và sự đòi hỏi về minh bạch, khả năng giải trình đều là cái chúng ta cần. Điều quan trọng là từ cái minh bạch, giải trình ấy, suy luận logic có chiều hướng sát với thực tế hơn, đúng với bằng chứng, xác thực hơn. Từ đó còn đi đến một điều rất quan trọng là tính quyết đoán, dám làm dám chịu của những người hoạch định chính sách.
Nếu tôi nhớ không nhầm, Lincons đã từng nói một câu đại ý như thế này: Bạn đừng chờ đợi một quyết định, một chính sách của ông Tổng thống mà tất cả đều có lợi.
Minh bạch không có nghĩa là công khai tất cả, nhưng nó đàng hoàng, đã giải thích cái gì thì phải đáng tin, tốt nhất là có bằng chứng xác thực. Thực tế, ta chưa thật mạnh ở điểm này. Một khi còn là một điểm mờ, thì người ta còn chỉ dựa vào suy luận có tính logic.
Tuy nhiên đã là suy luận logic thì hãy suy luận theo nhiều chiều chứ đừng chỉ suy luận theo một chiều. Ví dụ người ta cứ nghĩ đến chính sách là gắn với lợi ích nhóm, đầu tư công thì cũng gắn với lợi ích nhóm (tìm kiếm siêu lợi nhuận). Chả nhẽ công chức Việt xấu hết cả hay sao(?). Không có gì không hợp lý cả; song chỉ nhìn logic theo hướng xấu thì xã hội cũng rất khó phát triển.
PV: Khi trả lời trước báo chí, hay mới đây là giải trình trước Quốc hội, NHNN luôn khẳng định rằng: mục tiêu là bình ổn thị trường vàng chứ không phải bình ổn giá. Là một chuyên gia kinh tế, ông có nhận xét gì về tuyên bố này của NHNN?
TS. Võ Trí Thành:Theo tôi, câu trả lời của NHNN là chưa “ổn thỏa” khi nói rằng: ổn định thị trường vàng không phải là ổn định giá mà là ổn định thị trường. Có thể NHNN nói với hai hàm ý đằng sau. Ổn định thị trường ở đây có nghĩa là không có cú sốc” mua hay bán. Không phải bỗng dưng có một ngày có đến 3 vạn người kéo đến cửa hàng để mua vàng, rồi hôm sau chẳng có ai đến mua. Ổn định ở đây cũng có thể hiểu là giá vàng trong nước biến động không lớn, không quan tâm đến chênh lệch với giá vàng thế giới.
Nhưng nếu hiểu theo cả 2 nghĩa đấy thì đều chưa đầy đủ. Lý do thứ nhất: nếu chúng ta chỉ muốn ổn định thị trường trong nước giống như việc nhập một chai rượu, đặt thuế quan là 30%, thì chai rượu nhập khẩu ấy bán ở trong nước luôn luôn đắt hơn chai rượu ở nước ngoài 30%, tạm chưa tính những chi phí khác.
Vậy nếu không thay đổi thuế quan thì giá này rất ổn định, và cấu trúc thị trường Việt Nam giả sử không thay đổi, cứ vậy thôi. Rất ổn định. Nhưng nó sẽ dẫn đến hệ luỵ gì? Buôn lậu. Nên nếu nói ổn định thị trường vàng mà chỉ ổn định giá trong nước thì chưa đủ. Chênh lệch cao chắc chắn sẽ dẫn đến buôn lậu, không bằng cách này thì cách khác, nhất là khi Nhà nước độc quyền nhập khẩu vàng.
Vậy ổn định ở đây phải đạt được 2 điều. Thứ nhất là giá vàng trong nước phải gần sát với giá vàng thế giới để hạn chế buôn lậu, một loại đầu cơ.
Thứ hai, phải hạn chế đầu cơ thì cũng cần phải làm 2 điều nữa. Nhưng một trong 2 điều đó chúng ta không bao giờ làm được, vì giá vàng thế giới là do thế giới điều khiển nên ta bắt buộc phải theo. Còn cái tiếp theo là khoảng cách sát ấy không biến động lớn. Ví dụ chia trung bình cả tháng, chênh lệch chỉ từ 1 - 1,5 triệu. Nhưng nếu có ngày chênh lệch 3 triệu, có ngày chênh lệch 0 đồng thì rất dễ khuyến khích đầu cơ.
Nếu nhìn vào tất cả thì sẽ có 3 câu hỏi.
Câu hỏi thứ nhất: đặt ra nhiều mục tiêu, gắn với nhiều cái phức tạp như thế thì liệu NHNN có đủ công cụ để làm không? Câu trả lời là đủ. Bắn 3,4 con thỏ NHNN có thể có hẳn 5 mũi tên.
Câu hỏi thứ hai: NHNN có đủ năng lực và độ nhạy bén để làm không? Đây thức sự vẫn là một câu hỏi. Theo tôi hiểu, NHNN mới đưa ra chính sách đóng trạng thái tất toán của các NHTM trước ngày 30/6. Đây cũng có thể chỉ là thí điểm, tập chơi, và NHNN còn rất thận trọng.
Câu hỏi thứ ba: có mâu thuẫn gì về chính sách không? Câu hỏi rất khó. Một mặt chúng ta muốn giảm vàng hoá (về dài hạn), song mặt khác chúng ta lại (buộc) đang thừa nhận SJC là tiền vàng. Về bản chất, chúng ta mong muốn không còn vàng tiền, chỉ còn vàng trong dự trữ ngoại hối, nhưng trước mặt chúng ta lại thừa nhận SJC chính là vàng miếng, vàng tiền.
Cho nên cái quá độ này còn kéo dài bao lâu thì còn phụ thuộc vào rất nhiều chính sách nữa như ổn định vĩ mô, lấy lại vững chắc lòng tin vào tiền đồng, các giải pháp ứng xử với thị trường vàng (liên quan đến huy động vàng, thành lập sàn vàng quốc gia, cách thức liên thông với thị trường quốc tế,…).
PV: NHNN và nhiều chuyên gia cũng từng cho rằng, sau khi hoàn thành tất toán vàng (ngày 30/6), giá vàng sẽ giảm và chênh lệch giá so với thế giới cũng sẽ giảm. Theo ông, liệu NHNN có được mục tiêu đó hay không?
TS. Võ Trí Thành:Có nhiều biểu hiện cho thấy là khoảng cách sẽ giảm dần nhưng chưa thể nhanh được. Bên cạnh đó rủi ro vẫn còn. Đó chính là độ nhạy bén, kỹ thuật chơi vì vàng là một trong những loại hàng hoá có biến động lớn nhất trong thế giới trong tất cả các loại hàng hoá cơ bản.
Tôi nói có nhiều biểu hiện cho thấy là vì: thứ nhất, cầu vàng để tất toán của các NHTM cơ bản đã xong.
Thứ hai là việc “làm giá” trên thị trường vàng giảm. Cái này đã được chính một số người tham gia thị trường vàng đề cập trên kênh truyền hình rồi. Giá vàng trong nước bị chi phối không nhỏ bởi các đại gia; mà các đại gia bây giờ cũng đã thấm thía bài học đầu cơ rồi. Công tác giám sát cũng chặt chẽ hơn.
Thứ ba, độ hấp dẫn của vàng thế giới năm nay không cao (và theo tôi 25-30 năm nữa độ hấp dẫn của vàng sẽ giảm đi trông thấy).
Xin chân thành cảm ơn ông!
Theo Duyên Duyên