Việt Nam chưa nên áp dụng chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu
Việc áp dụng chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu đòi hỏi một cơ chế tỷ giá linh hoạt, nhưng chính điều này có thể gây bất ổn tài chính.
Đó là nhận định của các chuyên gia khi tham dự Hội thảo “ Chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu: Sự lựa chọn thích hợp cho Việt Nam” do Ngân hàng Nhà nước, Ủy ban Kinh tế Quốc hội và UNDP phối hợp tổ chức sáng nay (ngày 18/5/2013), tại Hà Nội.
Theo các nhà
nghiên cứu, việc lựa chọn cơ chế lạm phát mục tiêu đem lại nhiều lợi ích cho
các quốc gia. Trong đó, quan trọng nhất là việc theo đuổi chính sách tiền tệ lạm
phát mục tiêu sẽ giúp cho các nhà điều hành kiểm soát được kỳ vọng lạm phát và ổn
định lạm phát, làm giảm tác động của các cú sốc kinh tế, thúc đẩy sự ổn định của
giá cả, tạo nền tảng cho nền kinh tế phát triển bền vững thông qua việc thúc đẩy
ổn định tăng trưởng và việc làm.
Tuy nhiên, bên cạnh
đó việc theo đuổi cơ chế chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu cũng có thể phải
đối mặt với một số thách thức chính như việc áp dụng cơ chế này dễ làm suy yếu
độ tin cậy của ngân hàng trung ương.
Bên cạnh đó, việc
theo đuổi chính sách này cũng không thể ngăn chặn hoàn sự chi phối của chính tài
chính; việc áp dụng chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu đòi hỏi một cơ chế tỷ
giá linh hoạt, nhưng chính điều này có thể gây bất ổn tài chính.
Do đó các chuyên
gia tham dự hội thảo cho rằng, nếu quyết định áp dụng chính sách tiền tệ lạm
phát mục tiêu mỗi quốc gia cần có tính toán riêng của mình để thiết lập một lộ
trình và một khuôn khổ phù hợp với đặc thì kinh tế của quốc gia, qua đó làm giảm
những yếu điểm có thể mắc phải, đồng thời nâng cao tính hiệu quả khi áp dụng cơ
chế lạm phát mục tiêu.
Việt Nam chưa nên áp dụng chính sách tiền tệ lạm phát
mục tiêu
Theo các chuyên
gia, việc xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ của NHNN nhằm hướng tới mục
tiêu ổn định lạm phát ở Việt Nam còn nhiều khó khăn như: Sức ép đối với NHNN
trong điều hành chính sách tiền tệ để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế vẫn còn lớn. Đặc
biệt khi tăng trưởng kinh tế ở Việt nam còn thiên về tăng trưởng dựa vào lượng,
tức là dựa nhiều vào vốn mà chưa nâng cao chất lượng hiệu quả sử dụng vốn,
trong khi đó các doanh nghiệp lại phụ thuộc lớn vào vốn vay từ hệ thống ngân
hàng.
Thứ hai, Việt
Nam khó đo lường tổng lượng tiền trong nền kinh tế một cách chính xác trong điều
kiện nền kinh tế còn có tình trạng đô la hóa, vàng hóa cao.
Thứ ba, thị trường
tài chính chưa phát triển đầy đủ đã ảnh hưởng đến hiệu quả điều hành chính sách
tiền tệ
Thứ tư, lạm phát
của Việt Nam hiện nay còn chịu ảnh hưởng lớn của các cú sốc từ bên ngoài.
Thêm vào đó, khi
nghiên cứu các điều kiện nền tảng để áp dụng khuôn khổ chính sách tiền tệ lạm
phát mục tiêu, mặc dù có những điều kiện thuận lợi nhất định, song so với những
tiêu chí cơ bản để áp dụng thành công chính sách này thì Việt Nam vẫn còn thiếu
khi mà hầu hết các điều kiện ban đầu chưa đáp ứng đầy đủ.
Chính vì thế các
chuyên gia tham dự hội thảo đều cho rằng, hiện tại Việt Nam chưa nên áp dụng
ngay và toàn bộ chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu.
Về mặt trung hạn,
đa số các ý kiến cho rằng Việt Nam nên theo đuổi khuôn khổ chính sách tiền tệ lạm
phát mục tiêu vì đây là một chính sách tiền tệ có cơ chế vận hành tốt.
Tuy nhiên, để thực
hiện chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu ngay từ bây giờ Việt Nam cần bắt tay
vào việc hoàn thiện những điều kiện cơ bản, tạo lập tiền đề để cho quá trình áp
dụng chính sách này khi mà nền kinh tế đã hội tụ đầy đủ các điều kiện.
Khánh Linh