Cho vay không tài sản bảo đảm sẽ gây ra nợ xấu?
Khi đánh giá một khách hàng vay vốn, mỗi ngân hàng đều phải trả lời được câu hỏi đầu tiên “khách hàng có đáng tin cậy không?”, độ tin cậy càng cao thì đồng nghĩa với khả năng trả nợ đúng hạn càng lớn.
- 21-08-2014Ngân hàng "rộng cửa" cho vay mua nhà với chính sách ưu đãi
- 20-08-2014Tài sản thì…. tương lai: Cho vay dễ, xử lý khó
- 18-08-2014Cho vay tín chấp, vừa làm vừa run
Ngày 24/7/2014, NHNN đã ban hành văn bản số 5342/NHNN – TTGSNH yêu cầu các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài triển khai Chỉ thị 11/CT – TTg của Thủ tướng Chính phủ.
Theo đó, NHNN đề nghị các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài triển khai thực hiện một số giải pháp, bao gồm: chủ động tiếp cận với khách hàng có nhu cầu vay vốn; tăng cường khả năng cho vay không có bảo đảm bằng tài sản; đơn giản hóa thủ tục cho vay, cơ cấu lại các khoản vay có lãi suất cao trước đây; hoàn thiện hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ; đẩy mạnh cơ cấu lại các công ty con là công ty cho thuê tài chính…
Phần lớn các giải pháp trong văn bản này của NHNN nhằm hướng đến sự hoàn thiện trong hoạt động cấp tín dụng của các TCTD và chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Để từ đó, thúc đẩy tăng trưởng tín dụng toàn ngành và gia tăng chất lượng tín dụng trên mỗi hồ sơ.
Tuy nhiên, một trong các giải pháp đã được dư luận tách riêng và mổ xẻ nhiều nhất là “tăng cường khả năng cho vay không có bảo đảm bằng tài sản”. Kết quả, hàng loạt bài báo đã phân tích: cho vay tín chấp - vừa làm vừa run; nỗi khổ của ngân hàng; 80% các khoản cho vay của ngân hàng nước ngoài là tín chấp; chọn lọc khi nới cho vay tín chấp; cẩn thận nợ xấu…
Đến đây, có những câu hỏi được đặt ra: cho vay tín chấp có phải là cho vay không có bảo đảm bằng tài sản? loại cho vay này có rủi ro cao như thế nào mà ngân hàng vừa làm vừa run? Loại cho vay này có phải là xu hướng của hoạt động cho vay trong tương lai? Và loại cho vay này sẽ là nhân tố ảnh hưởng mạnh đến gia tăng nợ xấu?
Hiểu về cho vay không có bảo đảm bằng tài sản
Tác giả lật lại từng trang sách Tín dụng và Luật các tổ chức tín dụng 2010 thì hình như không có tồn tại khái niệm cho vay tín chấp mà thay vào đó là cho vay có bảo đảm và không bảo đảm (phù hợp với thuật ngữ mà NHNN đã sử dụng trong văn bản).
Đây thực chất là việc phân loại và sắp xếp các khoản cho vay theo từng nhóm dựa trên một số tiêu thức nhất định, chẳng hạn: căn cứ vào mục đích (cho vay bất động sản, cho vay nông nghiệp, cho vay cá nhân, cho vay các định chế tài chính…); căn cứ vào thời gian vay (cho vay ngắn hạn, cho vay trung hạn và cho vay dài hạn); căn cứ phương pháp hoàn trả (cho vay có thời hạn và cho vay không có thời hạn); căn cứ mức độ tín nhiệm đối với khách hàng (cho vay không bảo đảm và cho vay có bảo đảm).
Trong đó, cho vay không bảo đảm là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng. Đối với những khách hàng tốt, trung thực trong kinh doanh, có khả năng tài chính lành mạnh, quản trị có hiệu suất và phương án kinh doanh hiệu quả thì ngân hàng có thể cấp tín dụng dựa vào uy tín của bản thân khách hàng mà không cần một nguồn thu nợ thứ hai bổ sung là tài sản bảo đảm.
Cho vay không bảo đảm sẽ gây ra nợ xấu?
Thời gian gần đây, dư luận và nhiều bài báo đã đặt vấn đề xoay quanh nợ xấu và cho vay tín chấp như : gia tăng tín chấp sẽ đồng nghĩa với gia tăng nợ xấu đến nỗi ngân hàng vừa làm vừa run sợ; hoặc nới tín chấp coi chừng nợ xấu; hoặc vay bằng “niềm tin” có lo nợ xấu… Vậy, thật sự loại hình cho vay này có phải là tội đồ gây ra nợ xấu khi triển khai? Câu trả lời chắc chắn là không, bởi chẳng phải phần lớn nợ xấu hiện nay đến từ các khoản cho vay có tài sản bảo đảm sao?
Nợ xấu không đến từ có tài sản bảo đảm hay không tài sản bảo đảm, mà phần lớn đến từ hoạt động phân tích tín dụng yếu kém của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam. Bởi khi đánh giá một khách hàng vay vốn, mỗi ngân hàng đều phải trả lời được câu hỏi đầu tiên “khách hàng cho vay có đáng tin cậy không?”, độ tin cậy càng cao thì đồng nghĩa với khả năng trả nợ đúng hạn càng lớn. Chứ không phải là câu hỏi “anh có tài sản bảo đảm là gì?”.
Độ tin cậy của khách hàng cho vay càng cao thì đồng nghĩa với khả năng trả nợ đúng
Mọi phương thức cấp tín dụng đều xuất phát từ lòng tin, ngân hàng có tin thì mới cấp tín dụng cho khách hàng, còn không sẽ từ chối cho dù tài sản bảo đảm có giá trị lớn. Để phân tích được lòng tin một khách hàng (kể cả doanh nghiệp hoặc cá nhân), mỗi ngân hàng đều phải xem xét sáu khía cạnh với 6 chữ C :
- Character (tư cách của người vay): quan hệ vay trả đã qua; kinh nghiệm của các ngân hàng khác đối với khách hàng này; mục đích khoản vay; khả năng phân tích, dự báo về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp; có người bảo lãnh cho khoản vay…
- Capacity (năng lực của người vay): năng lực hành vi dân sự của khách hàng hoặc người bảo lãnh; những hồ sơ pháp lý chứng minh năng lực pháp lý của doanh nghiệp vay vốn; mô tả quá trình hoạt động của doanh nghiệp đến hiện tại, cơ cấu sở hữu, chủ sở hữu, sản phẩm, người cung ứng…
- Conditions (điều kiện môi trường): thị phần; lợi thế cạnh tranh; kết quả hoạt động của đối thủ cạnh tranh; tình hình cạnh tranh của các sản phẩm hiện tại; mức độ nhạy cảm của khách hàng đối với chu kỳ kinh doanh và thay đổi về công nghệ; tình hình kinh tế vĩ mô, các yếu tố chính trị, yếu tố pháp luật…
- Control (kiểm soát): các luật hiện hành liên quan đến khoản tín dụng đang được xem xét; đủ hồ sơ giấy tờ phục vụ cho công việc kiểm soát; hồ sơ giấy tờ cho vay, giải ngân phải có đầy đủ và được ký bởi các bên; mức độ phù hợp của khoản vay đối với quy chế, quy định của ngân hàng…
- Cash flow (dòng tiền được tạo để trả nợ ngân hàng) : thu nhập đã qua; doanh thu bán hàng; tình hình phân chia cổ tức; dòng tiền từ phương án kinh doanh hiện tại và dự kiến; tính thanh khoản của các tài sản lưu động; vòng quay nợ phải thu, phải trả và hàng tồn kho; cơ chế kiểm soát chi phí…
- Collateral (tài sản đảm bảo tín dụng) : những loại tài sản; giá trị tài sản; tình trạng tài sản; tình trạng bảo hiểm; vị thế của ngân hàng đối với tài sản khi được thế chấp/cầm cố…
Sau khi phân tích được 4C đầu tiên thì ngân hàng đã đánh giá phần nào hạng tín dụng với thiện chí trả nợ và mức độ rủi ro đi kèm của một khách hàng, nhưng vẫn chưa xác định được khả năng hoàn trả của khoản nợ. Bởi mọi khoản nợ phải được hoàn trả là yêu cầu cơ bản của hoạt động cho vay. Ngân hàng không thể cấp tín dụng cho khách hàng mà không có khả năng hoàn trả tiền vay, ngay cả khi khoản vay có tài sản bảo đảm.
Chính Cash flow– dòng tiền từ phương án kinh doanh là nguồn trả nợ quan trọng của bất kỳ khoản vay nào và theo đó tài sản đảm bảo (collateral) chỉ là nguồn trả nợ bổ sung. Ngân hàng nào đánh giá và kiểm soát được 5C đầu tiên thì dễ dàng ra quyết định tín dụng mà không cần sự đảm bảo của tài sản bảo đảm. Chính vì thế, nợ xấu không phụ thuộc hoàn toàn vào việc có hay không tài sản bảo đảm.
Vậy, lý do của việc thế chấp tài sản đảm bảo là gì?
Trong khi các công ty lớn và những khách hàng có hạng tín dụng cao thường vay vốn mà không phải sử dụng bất kỳ tài sản thế chấp thì hầu hết khách hàng của ngân hàng phải có tài sản thế chấp khi vay để đảm bảo cho việc thanh toán nợ.
Quy định tài sản thế chấp được thực hiện nhằm đáp ứng hai mục tiêu của người cho vay: thứ nhất, nếu người vay không có khả năng hoàn trả thì người cho vay có quyền thu giữ và bán tài sản để thu hồi lại khoản tiền đã cho vay; thứ hai, việc thế chấp sẽ tạo ra lợi thế về tâm lý cho người cho vay. Bởi vì các tài sản cụ thể đã được dùng để thế chấp cho khoản vay nên người vay sẽ cảm thấy cần phải làm việc tích cực hơn để thanh toán nợ của mình và tránh khả năng để mất những tài sản có giá trị.
Tóm lại, tài sản đảm bảo chỉ là nguồn trả nợ bổ sung cho khoản vay bên cạnh nguồn trả nợ chính yếu đến từ dòng tiền của phương án kinh doanh (cash flow). Tuy nhiên, nguồn trả nợ này lại đến sau hoạt động phân tích tín dụng với 4C đầu tiên để đánh giá phần lớn mức độ tin cậy của một khách hàng. Vì vậy, tăng cường khả năng cho vay không có bảo đảm bằng tài sản là điều cần thiết trong quá trình hoàn thiện nghiệp vụ tín dụng ở Việt Nam – đây là chủ trương đúng đắn của NHNN. Nhưng phải đi kèm với sự hoàn thiện hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ phù hợp với phạm vi hoạt động, tình hình thực tế để áp dụng hiệu quả vào việc phân loại nợ, đánh giá chất lượng tín dụng khách hàng.
>> Vay tiền mua nhà: Cảnh giác với lãi suất 'bèo'