Kinh tế ở đáy vẫn ngay ngáy lo thiếu điện
Các DN cho rằng khả năng thu hút vốn đầu tư, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vào tạo công ăn việc làm của Việt Nam đang bị đe dọa do nguy cơ thiếu điện trong tương lai.
- 14-12-2013Các bộ phải rà soát lại vụ tính tiền xây biệt thự, bể bơi vào giá điện
- 14-12-2013Bài toán vốn cho ngành điện
- 13-12-2013"Không thể mãi sử dụng điện giá thấp như thế này"
- 12-12-2013Tại sao địa phương không truy cứu được trách nhiệm trồng rừng của chủ các DA thủy điện?
Nỗi lo thiếu điện
Tại Diễn đàn DN cuối kỳ 2013 mới đây, nhiều nhà đầu tư bày tỏ lo ngại về nguồn cung năng lượng của Việt Nam. Trên thực tế, đã có năm, việc cắt điện luân phiên khiến nhiều DN có vốn đầu tư nước ngoài bị gián đoạn sản xuất. Một số DN đã bị áp dụng lịch cắt điện 48 giờ mỗi tuần.
Theo Quy hoạch Phát triển Điện lực Quốc gia giai đoạn 2011-2020, có xét đến năm 2030, (gọi tắt là Tổng sơ đồ điện VII), Việt Nam đặt mục tiêu đến 2020 sẽ đạt tổng công suất nguồn phát khoảng 75.000 MW và năm 2030 khoảng 146.800 MW. Tính ra, hết năm 2013, tổng công suất điện của cả nước sẽ đạt khoảng 30.000 MW, như vậy từ 2014-2020 bình quân mỗi năm phải đưa vào trên 6.000 MW - điều rất khó thực hiện.
Theo Hiệp hội Năng lượng Việt Nam, mục tiêu đạt 75.000 MW điện vào 2020, cũng chỉ đáp ứng được nhu cầu tăng trưởng kinh tế ở mức 6%/ năm. Nếu kinh tế tăng trưởng ở mức cao hơn, từ 7- 8%/năm trở lên và đời sống nhân dân tăng thì không đủ.
Theo Tổng sơ đồ điện 7, đến năm 2020, nhiệt điện than sẽ chiếm tới 48% trong tổng công suất, như vậy sẽ cần lượng than là 67,3 triệu tấn/năm và đến 2030, nhiệt điện than khoảng 76.000 MW, chiếm 51,6% cần tới 171 triệu tấn than/năm. Nguồn than cung cấp cho nhiệt điện than là một vấn đề hết sức nan giải. Từ 2015, Việt Nam phải nhập khẩu than, nhưng đến nay nguồn cung chưa được đảm bảo.
Trong nước với bể than thuộc Đồng bằng sông Hồng có trữ lượng 200 tỷ tấn, có thể khai thác lò tại một số tỉnh như Hà Nam, Thái Bình. Tại Quảng Ninh cũng có thể khai thác thêm 1 tỷ tấn ở mức dưới 100m, nhưng vấn đề quan trọng là nguồn vốn. Dù nhập khẩu hay mở mỏ tại Việt Nam thì cũng cần vốn lớn.
Nỗi lo lại càng lớn hơn khi Tập đoàn Dầu khí Quốc gia (Petro Vietnam) vừa cho biết, các cuộc đàm phán với hãng dầu lửa Chevron của Mỹ về khai thác một mỏ khí đốt rơi vào thất bại do bất đồng về giá cả.
Thất bại này cũng cản trở kế hoạch của Việt Nam nhằm tăng tỷ lệ sử dụng khí đốt trong cơ cấu năng lượng được dùng. Ngân hàng Thế giới (WB) cho biết, khí đốt chiếm khoảng 38% trong cơ cấu năng lượng của Việt Nam và Chính phủ dự kiến tăng tỷ lệ này lên 40% vào năm 2015.
Nhà đầu tư vẫn đợi
Hiện nay Nhà nước khó có thể nâng công suất của các nhà máy điện mới.
Hiện nay có ít nhất 15.000 MW công suất điện đang trong giai đoạn phát triển, bởi các nhà đầu tư nước ngoài, số dự án này tương đương với khoảng 25 tỷ USD.
Tuy nhiên, việc cấp phép các dự án điện cho DN nước ngoài rất chậm. Các nhà đầu tư nước ngoài phải mất nhiều năm để có thể hoàn tất thủ tục xin phép xây dựng nhà máy điện tại Việt Nam.
Các ý kiến cũng cho biết, Việt Nam là một trong những nước có nguồn năng lượng điện gió lớn nhất ASEAN. Tổng sơ đồ điện VII cũng đưa ra mục tiêu đạt 1.000 MW phong điện vào năm 2020. Tuy nhiên, việc xây dựng và phát triển các nhà máy phong điện chậm hơn nhiều so với dự kiến, với tổng công suất đến nay mới chỉ đạt 46 MW.
Ngoài ra, giá mua điện của EVN từ các công ty sản xuất điện độc lập thấp, không đủ tạo lợi nhuận cho nhà đầu tư, không đủ đảm bảo các khoản vay ngân hàng. Chính vì vậy, những công ty có năng lực tài chính và uy tín về phong điện chưa có cơ hội thâm nhập thị trường Việt Nam.
>> Bài toán vốn cho ngành điện
Theo Trần Thủy