Quốc hội sẽ thông qua nhiều luật về tổ chức bộ máy nhà nước
Theo dự kiến Chương trình, Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIII sẽ xem xét, thông qua 18 dự án luật, cho ý kiến 12 dự án luật.
Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội những tháng cuối năm 2014 tập trung nhiều dự án luật rất quan trọng nhằm thể chế hóa các quy định của Hiến pháp về tổ chức bộ máy nhà nước, các dự án luật quy định về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân…
Theo dự kiến Chương trình, Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIII sẽ xem xét, thông qua 18 dự án luật, cho ý kiến 12 dự án luật.
Thể chế hóa quy định Hiến pháp về bộ máy nhà nước
Nhằm tiếp tục thể chế hóa các quy định của Hiến pháp, tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội sẽ cho ý kiến và thông qua nhiều dự án luật quan trọng liên quan đến tổ chức bộ máy nhà nước, gồm: Luật tổ chức Quốc hội (sửa đổi), Luật tổ chức Chính phủ (sửa đổi), Luật tổ chức chính quyền địa phương, Luật tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi), Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (sửa đổi),…
Luật tổ chức Quốc hội (sửa đổi) được xây dựng dựa trên kết quả tổng kết 12 năm thi hành Luật tổ chức Quốc hội và ý kiến của các cơ quan, tổ chức hữu quan, các chuyên gia, các nhà khoa học; thể chế hóa đầy đủ các chủ trương, đường lối của Đảng về đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và đại biểu Quốc hội; cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp liên quan tổ chức và hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và đại biểu Quốc hội. Dự thảo Luật tổ chức Quốc hội (sửa đổi) đã được các đại biểu Quốc hội thảo luận, cho ý kiến lần đầu tại Kỳ họp thứ 7.
Trên cơ sở kế thừa và phát triển những quy định trong Luật tổ chức Quốc hội và các văn bản pháp luật khác đã được thực tiễn kiểm nghiệm là hợp lý, đúng đắn và hiệu quả, dự thảo luật đã khắc phục những hạn chế, bất cập; đồng thời hệ thống hóa, pháp điển một bước các quy định về tổ chức và hoạt động của Quốc hội trong các văn bản pháp luật có liên quan.
Đặc biệt, dự thảo luật đã có sự phân công cụ thể, rõ ràng nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan của Quốc hội tránh chồng chéo, trùng lặp, không hành chính hóa hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội. Xác định rõ vị trí, vai trò của đại biểu Quốc hội giữ vai trò trung tâm, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội là các cơ quan chuyên môn làm việc thường xuyên của Quốc hội; Ủy ban thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội; các cơ quan khác thuộc Quốc hội và Văn phòng Quốc hội là bộ máy tham mưu, phục vụ của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội.
Hiến pháp năm 2013 có nhiều quy định mới về các thiết chế tổ chức quyền lực nhà nước đòi hỏi phải sửa đổi Luật tổ chức Chính phủ năm 2001, đặc biệt là chế định về Chính phủ và mối quan hệ của Chính phủ với các thiết chế quyền lực khác như Quốc hội, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và chính quyền địa phương trong việc phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Việc sửa đổi Luật tổ chức Chính phủ lần này nhằm tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ, xây dựng Chính phủ mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; hệ thống hành chính nhà nước thống nhất, thông suốt, phát huy mạnh mẽ dân chủ và pháp quyền, phục vụ nhân dân, kiến tạo, phát triển đất nước. Dự thảo quy định Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội. Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.
Dự án Luật tổ chức chính quyền địa phương được xây dựng để tổ chức hợp lý chính quyền địa phương phù hợp với Hiến pháp năm 2013; bảo đảm chính quyền địa phương các cấp hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, hệ thống hành chính nhà nước thống nhất, thông suốt từ Trung ương đến cơ sở. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong việc xây dựng và giám sát hoạt động của chính quyền địa phương.
Trên cơ sở phân định thẩm quyền giữa Chính phủ với chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, dự thảo luật quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức, chế độ làm việc và mối quan hệ công tác của Hội đồng Nhân dân và Ủy ban Nhân dân ở các đơn vị hành chính bảo đảm gắn kết thống nhất giữa Hội đồng Nhân dân và Ủy ban Nhân dân cùng cấp trong chỉnh thể chính quyền địa phương phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính-kinh tế đặc biệt.
Dụ thảo luật cũng phân định cụ thể nhiệm vụ, thẩm quyền giữa tập thể Ủy ban Nhân dân và cá nhân Chủ tịch Ủy ban Nhân dân theo hướng đề cao trách nhiệm người đứng đầu; tăng cường kiểm tra, giám sát của Trung ương và cơ quan nhà nước cấp trên; tăng cường công khai, minh bạch, bảo đảm sự tham gia của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị-xã hội và nhân dân trong tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương.
Dự thảo Luật tổ chức chính quyền địa phương điều chỉnh các vấn đề về tổ chức đơn vị hành chính; về mô hình tổ chức chính quyền địa phương ở các đơn vị hành chính; về phân định thẩm quyền và quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của từng cấp chính quyền địa phương; về tổ chức, hoạt động của Hội đồng Nhân dân, Ủy ban Nhân dân và mối quan hệ giữa Hội đồng Nhân dân, Ủy ban Nhân dân với Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị-xã hội và nhân dân.
Dự thảo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi) đã được các đại biểu Quốc hội thảo luận, cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 7. Dự thảo luật được xây dựng trên cơ sở thể chế hóa các chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp, đặc biệt là Nghị quyết số 49-NQ/TW, Kết luận số 79-KL/TW và Kết luận số 92-KL/TW của Bộ Chính trị và Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI.
Dự thảo luật đã xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp, Tòa án có vị trí trung tâm và xét xử là trọng tâm của hoạt động tư pháp. Tổ chức Tòa án theo thẩm quyền xét xử, bảo đảm nguyên tắc độc lập trong hoạt động xét xử; tạo cơ sở pháp lý để nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán, cán bộ, công chức Tòa án; xây dựng cơ sở vật chất, phương tiện làm việc của Tòa án từng bước hiện đại, khoa học; bảo đảm chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức Tòa án, qua đó nâng cao chất lượng xét xử, thực hiện có hiệu quả quyền tư pháp, đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Dự thảo Luật tổ chức Tòa án Nhân dân (sửa đổi) bảo đảm cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013 và tính thống nhất trong hệ thống pháp luật; bảo đảm tính khả thi và không làm cản trở việc thực hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Dự thảo Luật Tổ chức Tòa án Nhân dân (sửa đổi) đã xây dựng phương án thành lập Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực.
Việc thành lập Tòa án Nhân dân sơ thẩm khu vực sẽ góp phần khắc phục những hạn chế, bất cập về việc tổ chức Tòa án nhân dân cấp huyện hiện nay, do được tổ chức theo đơn vị hành chính cấp huyện, nên số lượng các Tòa án nhân dân cấp huyện hiện nay là rất lớn và đang có xu hướng tăng lên do có sự chia, tách, thành lập mới các đơn vị hành chính cấp huyện, trong khi số lượng các vụ việc phải giải quyết của mỗi tòa án cấp này phụ thuộc vào đặc điểm dân số, địa lý, mức độ phát triển kinh tế-xã hội, số lượng tội phạm, tranh chấp dân sự, kinh doanh thương mại... xảy ra trên từng địa bàn, có nơi quá nhiều việc, ngược lại có nơi lại quá ít việc.
Thực tế này đang tạo ra những trở ngại, khó khăn, thách thức lớn trong đầu tư cơ sở vật chất, tăng cường nguồn lực để kiện toàn, nâng cao năng lực và chất lượng công tác của các Toà án cấp huyện, nơi giải quyết, xét xử theo thủ tục sơ thẩm trên 90% các loại vụ việc thuộc thẩm quyền tòa án.
Việc xây dựng dự thảo Luật tổ chức Tòa án Nhân dân (sửa đổi) được tiến hành đồng bộ với việc đổi mới, kiện toàn tổ chức và hoạt động của viện kiểm sát. Dự thảo Luật tổ chức Viện Kiểm sát Nhân dân (sửa đổi) đã cụ thể hóa các quy định liên quan đến Viện Kiểm sát Nhân dân trong Hiến pháp năm 2013. Qua đó tạo cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp; nâng cao hiệu quả đấu tranh với tội phạm và vi phạm pháp luật trong tình hình mới.
Trên cơ sở thể chế hóa đầy đủ, đúng đắn, toàn diện các chủ trương cải cách tư pháp của Đảng liên quan đến Viện kiểm sát nhân dân, thể hiện trong Nghị quyết số 49-NQ/TW, Kết luận số 79-KL/TW, Kết luận số 92-KL/TW và Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, dự thảo Luật đã tính đến đặc điểm cụ thể về chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa của nước ta; bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng, sự giám sát chặt chẽ của các cơ quan dân cử và nhân dân; xây dựng hệ thống viện kiểm sát nhân dân tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả.
Thể chế hóa quan điểm, chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Theo Chương trình, Kỳ họp thứ 8 sẽ thông qua nhiều dự thảo Luật quy định về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các dự thảo Luật này đã được các đại biểu Quốc hội thảo luận, cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 7.
Dự thảo Luật Nhà ở (sửa đổi) thể chế quan điểm, chủ trương của Đảng về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực phát triển nhà ở, một mặt tạo môi trường thuận lợi để phát triển nhà ở nhằm đáp ứng nhu cầu về nhà ở của người dân có thu nhập và có khả năng thanh toán theo cơ chế thị trường; đồng thời quan tâm phát triển nhà ở xã hội có sự hỗ trợ của Nhà nước để phục vụ các đối tượng chính sách xã hội, người nghèo, người thu nhập thấp có khó khăn về nhà ở nhưng không có khả năng tạo lập nhà ở theo cơ chế thị trường, trên nguyên tắc việc phát triển nhà ở là trách nhiệm của Nhà nước, của xã hội và của người dân.
Dự thảo luật cũng thể hiện rõ quan điểm phát triển nhà ở phải được thể hiện trong quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế, xã hội của đất nước; tuân thủ quy hoạch, chương trình và kế hoạch phát triển nhà ở trong từng giai đoạn của mỗi địa phương, bảo đảm sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cho phát triển nhà ở, khắc phục tình trạng lệch pha cung-cầu trong phát triển nhà ở.
Phát triển đa dạng và hài hòa các loại hình nhà ở bao gồm nhà ở chung cư, nhà ở riêng lẻ; nhà ở để bán, cho thuê, cho thuê mua phù hợp với nhu cầu và khả năng chi trả của từng nhóm đối tượng trong xã hội; hình thành các định chế tài chính phát triển nhà ở phù hợp để các doanh nghiệp và mọi người dân, đặc biệt là các đối tượng chính sách xã hội, người thu nhập thấp được tiếp cận nguồn vốn tín dụng cho mục đích cải thiện nhà ở; từng bước đáp ứng nhu cầu về nhà ở ngày càng tốt hơn cho các tầng lớp dân cư.
Dự thảo cũng mở rộng đối tượng và điều kiện người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài được mua và sở hữu nhà ở tại Việt Nam để huy động các nguồn lực về vốn, công nghệ, kinh nghiệm…phục vụ cho phát triển đất nước.
Dự thảo Luật Đầu tư (sửa đổi) tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm tạo môi trường đầu tư bình đẳng, thuận lợi và minh bạch hơn nữa để huy động tối đa nguồn vốn đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài; góp phần thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng về tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Các quy định của dự thảo tạo bước chuyển biến mới về cải cách thủ tục hành chính trong thực hiện hoạt động đầu tư gắn liền với việc đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu qủa công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư; góp phần tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện để các nhà đầu tư thực hiện hoạt động đầu tư với thủ tục đơn giản hơn và chi phí thấp hơn.
Dự thảo cũng bổ sung, hoàn thiện cơ chế khuyến khích và bảo hộ đầu tư phù hợp với cam kết của Việt Nam về mở cửa thị trường và tự do hóa đầu tư theo các điều ước quốc tế đã và sẽ thỏa thuận trong thời gian tới.
Dự thảo Luật Kinh doanh bất động sản (sửa đổi) thể chế hóa đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước trong lĩnh vực kinh doanh bất động sản.
Trong đó, phải tăng cường vai trò quản lý của nhà nước để kiểm soát thị trường, bảo đảm cho thị trường bất động sản được phát triển theo đúng quy hoạch, kế hoạch, định hướng, bền vững và kết nối thông suốt với các thị trường khác trong nền kinh tế, góp phần phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
Dự thảo có các quy định để tạo môi trường pháp lý thông thoáng, bình đẳng, huy động hiệu quả các nguồn lực của xã hội tham gia vào thị trường bất động sản; tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư, các doanh nghiệp và người dân tham gia hoạt động kinh doanh bất động sản; tăng cường hội nhập quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực kinh doanh bất động sản, trên cơ sở bảo đảm chủ quyền quốc gia, giữ vững an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội.
Hoàn thiện cơ cấu các chủ thể tham gia thị trường bất động sản, tăng cường năng lực và nâng cao trách nhiệm của các doanh nghiệp kinh doanh bất động sản, nâng cao chất lượng, tính chuyên nghiệp của các nhà môi giới, định giá, quản lý bất động sản để thị trường bất động sản hoạt động hiệu quả, công khai, minh bạch, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia thị trường bất động sản.
Mục tiêu cao nhất của sửa đổi Luật Doanh nghiệp là làm cho doanh nghiệp trở thành một công cụ kinh doanh rẻ hơn, an toàn hơn và hấp dẫn hơn cho các nhà đầu tư; qua đó tăng cường thu hút và huy động các nguồn lực và vốn đầu tư vào sản xuất, kinh doanh.
Các mục tiêu cụ thể mà dự án Luật Doanh nghiệp (sửa đổi) nhằm đạt được bao gồm: tạo thuận lợi hơn cho việc thành lập doanh nghiệp; đối xử bình đẳng về thủ tục thành lập doanh nghiệp, gia nhập thị trường giữa các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài; thuận lợi hơn, giảm chi phí cho tổ chức quản trị doanh nghiệp, cơ cấu lại doanh nghiệp; bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư, cổ đông, thành viên của doanh nghiệp; tạo thuận lợi hơn và ít tốn kém hơn cho doanh nghiệp, nhà đầu tư rút lui khỏi thị trường; nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp.
Theo dự kiến Chương trình, Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIII sẽ xem xét, thông qua 18 dự án luật, cho ý kiến 12 dự án luật.
Thể chế hóa quy định Hiến pháp về bộ máy nhà nước
Nhằm tiếp tục thể chế hóa các quy định của Hiến pháp, tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội sẽ cho ý kiến và thông qua nhiều dự án luật quan trọng liên quan đến tổ chức bộ máy nhà nước, gồm: Luật tổ chức Quốc hội (sửa đổi), Luật tổ chức Chính phủ (sửa đổi), Luật tổ chức chính quyền địa phương, Luật tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi), Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (sửa đổi),…
Luật tổ chức Quốc hội (sửa đổi) được xây dựng dựa trên kết quả tổng kết 12 năm thi hành Luật tổ chức Quốc hội và ý kiến của các cơ quan, tổ chức hữu quan, các chuyên gia, các nhà khoa học; thể chế hóa đầy đủ các chủ trương, đường lối của Đảng về đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và đại biểu Quốc hội; cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp liên quan tổ chức và hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và đại biểu Quốc hội. Dự thảo Luật tổ chức Quốc hội (sửa đổi) đã được các đại biểu Quốc hội thảo luận, cho ý kiến lần đầu tại Kỳ họp thứ 7.
Trên cơ sở kế thừa và phát triển những quy định trong Luật tổ chức Quốc hội và các văn bản pháp luật khác đã được thực tiễn kiểm nghiệm là hợp lý, đúng đắn và hiệu quả, dự thảo luật đã khắc phục những hạn chế, bất cập; đồng thời hệ thống hóa, pháp điển một bước các quy định về tổ chức và hoạt động của Quốc hội trong các văn bản pháp luật có liên quan.
Đặc biệt, dự thảo luật đã có sự phân công cụ thể, rõ ràng nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan của Quốc hội tránh chồng chéo, trùng lặp, không hành chính hóa hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội. Xác định rõ vị trí, vai trò của đại biểu Quốc hội giữ vai trò trung tâm, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội là các cơ quan chuyên môn làm việc thường xuyên của Quốc hội; Ủy ban thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội; các cơ quan khác thuộc Quốc hội và Văn phòng Quốc hội là bộ máy tham mưu, phục vụ của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội.
Hiến pháp năm 2013 có nhiều quy định mới về các thiết chế tổ chức quyền lực nhà nước đòi hỏi phải sửa đổi Luật tổ chức Chính phủ năm 2001, đặc biệt là chế định về Chính phủ và mối quan hệ của Chính phủ với các thiết chế quyền lực khác như Quốc hội, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và chính quyền địa phương trong việc phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Việc sửa đổi Luật tổ chức Chính phủ lần này nhằm tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ, xây dựng Chính phủ mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; hệ thống hành chính nhà nước thống nhất, thông suốt, phát huy mạnh mẽ dân chủ và pháp quyền, phục vụ nhân dân, kiến tạo, phát triển đất nước. Dự thảo quy định Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội. Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.
Dự án Luật tổ chức chính quyền địa phương được xây dựng để tổ chức hợp lý chính quyền địa phương phù hợp với Hiến pháp năm 2013; bảo đảm chính quyền địa phương các cấp hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, hệ thống hành chính nhà nước thống nhất, thông suốt từ Trung ương đến cơ sở. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong việc xây dựng và giám sát hoạt động của chính quyền địa phương.
Trên cơ sở phân định thẩm quyền giữa Chính phủ với chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, dự thảo luật quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức, chế độ làm việc và mối quan hệ công tác của Hội đồng Nhân dân và Ủy ban Nhân dân ở các đơn vị hành chính bảo đảm gắn kết thống nhất giữa Hội đồng Nhân dân và Ủy ban Nhân dân cùng cấp trong chỉnh thể chính quyền địa phương phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính-kinh tế đặc biệt.
Dụ thảo luật cũng phân định cụ thể nhiệm vụ, thẩm quyền giữa tập thể Ủy ban Nhân dân và cá nhân Chủ tịch Ủy ban Nhân dân theo hướng đề cao trách nhiệm người đứng đầu; tăng cường kiểm tra, giám sát của Trung ương và cơ quan nhà nước cấp trên; tăng cường công khai, minh bạch, bảo đảm sự tham gia của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị-xã hội và nhân dân trong tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương.
Dự thảo Luật tổ chức chính quyền địa phương điều chỉnh các vấn đề về tổ chức đơn vị hành chính; về mô hình tổ chức chính quyền địa phương ở các đơn vị hành chính; về phân định thẩm quyền và quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của từng cấp chính quyền địa phương; về tổ chức, hoạt động của Hội đồng Nhân dân, Ủy ban Nhân dân và mối quan hệ giữa Hội đồng Nhân dân, Ủy ban Nhân dân với Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị-xã hội và nhân dân.
Dự thảo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi) đã được các đại biểu Quốc hội thảo luận, cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 7. Dự thảo luật được xây dựng trên cơ sở thể chế hóa các chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp, đặc biệt là Nghị quyết số 49-NQ/TW, Kết luận số 79-KL/TW và Kết luận số 92-KL/TW của Bộ Chính trị và Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI.
Dự thảo luật đã xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp, Tòa án có vị trí trung tâm và xét xử là trọng tâm của hoạt động tư pháp. Tổ chức Tòa án theo thẩm quyền xét xử, bảo đảm nguyên tắc độc lập trong hoạt động xét xử; tạo cơ sở pháp lý để nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán, cán bộ, công chức Tòa án; xây dựng cơ sở vật chất, phương tiện làm việc của Tòa án từng bước hiện đại, khoa học; bảo đảm chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức Tòa án, qua đó nâng cao chất lượng xét xử, thực hiện có hiệu quả quyền tư pháp, đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Dự thảo Luật tổ chức Tòa án Nhân dân (sửa đổi) bảo đảm cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013 và tính thống nhất trong hệ thống pháp luật; bảo đảm tính khả thi và không làm cản trở việc thực hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Dự thảo Luật Tổ chức Tòa án Nhân dân (sửa đổi) đã xây dựng phương án thành lập Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực.
Việc thành lập Tòa án Nhân dân sơ thẩm khu vực sẽ góp phần khắc phục những hạn chế, bất cập về việc tổ chức Tòa án nhân dân cấp huyện hiện nay, do được tổ chức theo đơn vị hành chính cấp huyện, nên số lượng các Tòa án nhân dân cấp huyện hiện nay là rất lớn và đang có xu hướng tăng lên do có sự chia, tách, thành lập mới các đơn vị hành chính cấp huyện, trong khi số lượng các vụ việc phải giải quyết của mỗi tòa án cấp này phụ thuộc vào đặc điểm dân số, địa lý, mức độ phát triển kinh tế-xã hội, số lượng tội phạm, tranh chấp dân sự, kinh doanh thương mại... xảy ra trên từng địa bàn, có nơi quá nhiều việc, ngược lại có nơi lại quá ít việc.
Thực tế này đang tạo ra những trở ngại, khó khăn, thách thức lớn trong đầu tư cơ sở vật chất, tăng cường nguồn lực để kiện toàn, nâng cao năng lực và chất lượng công tác của các Toà án cấp huyện, nơi giải quyết, xét xử theo thủ tục sơ thẩm trên 90% các loại vụ việc thuộc thẩm quyền tòa án.
Việc xây dựng dự thảo Luật tổ chức Tòa án Nhân dân (sửa đổi) được tiến hành đồng bộ với việc đổi mới, kiện toàn tổ chức và hoạt động của viện kiểm sát. Dự thảo Luật tổ chức Viện Kiểm sát Nhân dân (sửa đổi) đã cụ thể hóa các quy định liên quan đến Viện Kiểm sát Nhân dân trong Hiến pháp năm 2013. Qua đó tạo cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp; nâng cao hiệu quả đấu tranh với tội phạm và vi phạm pháp luật trong tình hình mới.
Trên cơ sở thể chế hóa đầy đủ, đúng đắn, toàn diện các chủ trương cải cách tư pháp của Đảng liên quan đến Viện kiểm sát nhân dân, thể hiện trong Nghị quyết số 49-NQ/TW, Kết luận số 79-KL/TW, Kết luận số 92-KL/TW và Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, dự thảo Luật đã tính đến đặc điểm cụ thể về chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa của nước ta; bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng, sự giám sát chặt chẽ của các cơ quan dân cử và nhân dân; xây dựng hệ thống viện kiểm sát nhân dân tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả.
Thể chế hóa quan điểm, chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Theo Chương trình, Kỳ họp thứ 8 sẽ thông qua nhiều dự thảo Luật quy định về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các dự thảo Luật này đã được các đại biểu Quốc hội thảo luận, cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 7.
Dự thảo Luật Nhà ở (sửa đổi) thể chế quan điểm, chủ trương của Đảng về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực phát triển nhà ở, một mặt tạo môi trường thuận lợi để phát triển nhà ở nhằm đáp ứng nhu cầu về nhà ở của người dân có thu nhập và có khả năng thanh toán theo cơ chế thị trường; đồng thời quan tâm phát triển nhà ở xã hội có sự hỗ trợ của Nhà nước để phục vụ các đối tượng chính sách xã hội, người nghèo, người thu nhập thấp có khó khăn về nhà ở nhưng không có khả năng tạo lập nhà ở theo cơ chế thị trường, trên nguyên tắc việc phát triển nhà ở là trách nhiệm của Nhà nước, của xã hội và của người dân.
Dự thảo luật cũng thể hiện rõ quan điểm phát triển nhà ở phải được thể hiện trong quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế, xã hội của đất nước; tuân thủ quy hoạch, chương trình và kế hoạch phát triển nhà ở trong từng giai đoạn của mỗi địa phương, bảo đảm sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cho phát triển nhà ở, khắc phục tình trạng lệch pha cung-cầu trong phát triển nhà ở.
Phát triển đa dạng và hài hòa các loại hình nhà ở bao gồm nhà ở chung cư, nhà ở riêng lẻ; nhà ở để bán, cho thuê, cho thuê mua phù hợp với nhu cầu và khả năng chi trả của từng nhóm đối tượng trong xã hội; hình thành các định chế tài chính phát triển nhà ở phù hợp để các doanh nghiệp và mọi người dân, đặc biệt là các đối tượng chính sách xã hội, người thu nhập thấp được tiếp cận nguồn vốn tín dụng cho mục đích cải thiện nhà ở; từng bước đáp ứng nhu cầu về nhà ở ngày càng tốt hơn cho các tầng lớp dân cư.
Dự thảo cũng mở rộng đối tượng và điều kiện người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài được mua và sở hữu nhà ở tại Việt Nam để huy động các nguồn lực về vốn, công nghệ, kinh nghiệm…phục vụ cho phát triển đất nước.
Dự thảo Luật Đầu tư (sửa đổi) tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm tạo môi trường đầu tư bình đẳng, thuận lợi và minh bạch hơn nữa để huy động tối đa nguồn vốn đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài; góp phần thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng về tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Các quy định của dự thảo tạo bước chuyển biến mới về cải cách thủ tục hành chính trong thực hiện hoạt động đầu tư gắn liền với việc đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu qủa công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư; góp phần tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện để các nhà đầu tư thực hiện hoạt động đầu tư với thủ tục đơn giản hơn và chi phí thấp hơn.
Dự thảo cũng bổ sung, hoàn thiện cơ chế khuyến khích và bảo hộ đầu tư phù hợp với cam kết của Việt Nam về mở cửa thị trường và tự do hóa đầu tư theo các điều ước quốc tế đã và sẽ thỏa thuận trong thời gian tới.
Dự thảo Luật Kinh doanh bất động sản (sửa đổi) thể chế hóa đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước trong lĩnh vực kinh doanh bất động sản.
Trong đó, phải tăng cường vai trò quản lý của nhà nước để kiểm soát thị trường, bảo đảm cho thị trường bất động sản được phát triển theo đúng quy hoạch, kế hoạch, định hướng, bền vững và kết nối thông suốt với các thị trường khác trong nền kinh tế, góp phần phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
Dự thảo có các quy định để tạo môi trường pháp lý thông thoáng, bình đẳng, huy động hiệu quả các nguồn lực của xã hội tham gia vào thị trường bất động sản; tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư, các doanh nghiệp và người dân tham gia hoạt động kinh doanh bất động sản; tăng cường hội nhập quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực kinh doanh bất động sản, trên cơ sở bảo đảm chủ quyền quốc gia, giữ vững an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội.
Hoàn thiện cơ cấu các chủ thể tham gia thị trường bất động sản, tăng cường năng lực và nâng cao trách nhiệm của các doanh nghiệp kinh doanh bất động sản, nâng cao chất lượng, tính chuyên nghiệp của các nhà môi giới, định giá, quản lý bất động sản để thị trường bất động sản hoạt động hiệu quả, công khai, minh bạch, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia thị trường bất động sản.
Mục tiêu cao nhất của sửa đổi Luật Doanh nghiệp là làm cho doanh nghiệp trở thành một công cụ kinh doanh rẻ hơn, an toàn hơn và hấp dẫn hơn cho các nhà đầu tư; qua đó tăng cường thu hút và huy động các nguồn lực và vốn đầu tư vào sản xuất, kinh doanh.
Các mục tiêu cụ thể mà dự án Luật Doanh nghiệp (sửa đổi) nhằm đạt được bao gồm: tạo thuận lợi hơn cho việc thành lập doanh nghiệp; đối xử bình đẳng về thủ tục thành lập doanh nghiệp, gia nhập thị trường giữa các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài; thuận lợi hơn, giảm chi phí cho tổ chức quản trị doanh nghiệp, cơ cấu lại doanh nghiệp; bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư, cổ đông, thành viên của doanh nghiệp; tạo thuận lợi hơn và ít tốn kém hơn cho doanh nghiệp, nhà đầu tư rút lui khỏi thị trường; nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp.