Tin đồn về ung thư: Bệnh nhân ung thư vú có được uống sữa đậu nành không?
Genistein trong đậu nành không những không thúc đẩy sự tăng sinh của tế bào ung thư mà còn kìm hãm nó, làm chậm quá trình phát triển của nó.
- 09-02-2019Liệu pháp chữa ung thư giá rẻ đang áp dụng tại VN: Chuyên gia khẳng định kết quả rất tốt
- 06-02-2019Nuốt nước bọt mà có dấu hiệu này, có khả năng bị ung thư tuyến giáp
- 01-02-2019Thói quen nhỏ dẫn tới hậu quả lớn: Những người thường xuyên làm 2 việc này, rất dễ bị ung thư túi mật
Khi nói về bệnh ung thư, một mặt trái khiến cộng đồng lo lắng là sự tràn ngập của các thông tin không đầy đủ và phiến diện, gây hiểu lầm và hoang mang cho người đọc.
Ung thư vú là loại ung thư thường gặp, đứng hàng đầu về số lượng người mắc ở cả Việt Nam và trên thế giới. Nguyên nhân gây ung thư vú chưa rõ ràng nhưng có một số yếu tố làm tăng nguy cơ ung thư được ghi nhận.
Một yếu tố nổi bật trong đó đề cập đến sự tiếp xúc kéo dài với estrogen như ở những người phụ nữ có kinh sớm, mãn kinh muộn, béo phì hay điều trị hóc môn thay thế. Estrogen là hormone quan trọng nội sinh trong cơ thể, điều hòa chuyển hóa và sinh lý nữ. Một số yếu tố nào đó làm thay đổi nồng độ estrogen trong cơ thể sẽ có thể tăng nguy cơ ung thư, trong đó có ung thư vú.
Điều này được lý giải dựa trên 3 cơ chế: estrogen làm tăng sinh tế bào tuyến vú cả lành tính và ác tính, tăng khả năng đột biến gen và đột biến lệch bội nhiễm sắc thể [2].
Do trong sữa đậu nành có chứa estrogen nên dựa trên cơ chế trên, có một số tin đồn rằng uống sữa đậu nành làm ung thư vú diễn tiến nặng hơn, nên bệnh nhân ung thư vú không được uống sữa đậu nành. Tại sao có sự hiểu lầm này?
Nguyên nhân dẫn đến tin đồn đậu nành thúc đẩy ung thư vú
Đầu tiên, ý kiến trên cũng có điểm đúng là trong sữa đậu nành chứa estrogen, tuy nhiên, đúng mà chưa đủ. Vì estrogen này là estrogen thực vật, cụ thể là các isoflavon .
Trong các isoflavone của đậu nành thì có 3 hoạt chất quan trọng, mà một trong số đó có hoạt tính sinh học cao nhất, đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết sự phát triển của tế bào ung thư. Chất này (có tên là Genistein) không những không thúc đẩy sự tăng sinh của tế bào ung thư mà còn kìm hãm nó, làm chậm quá trình phát triển của nó.
Genistein trong đậu nành không những không thúc đẩy sự tăng sinh của tế bào ung thư mà còn kìm hãm nó, làm chậm quá trình phát triển của nó. Ảnh minh họa.
Vậy sự khác biệt ở đây là ung thư vú chịu ảnh hưởng của estrogen nội sinh, trong khi đậu nành lại cung cấp thêm estrogen thực vật.
Để chứng minh vai trò có lợi của estrogen thực vật trên bệnh nhân ung thư vú, cụ thể là lên tỷ lệ mắc ở người chưa bị và tỷ lệ tái phát, tử vong ở người đã bị ung thư vú các nhà khoa học đã tiến hành nghiên cứu và bước đầu có kết quả tích cực.
Cụ thể, theo các nghiên cứu phân tích tổng hợp (meta-analysisis) gần nhất, đậu nành có vẻ có tác dụng tích cực đối với việc phòng bệnh ở người chưa mắc ung thư vú.
Cụ thể, năm 2006, một nghiên cứu của trường y Johns Hopkins (Hoa Kỳ) tổng hợp 18 nghiên cứu dịch tễ từ năm 1978-2004 thấy rằng đậu nành có khả năng giảm nguy cơ ung thư vú[5].
Năm 2010, một nghiên cứu tổng hợp khác cũng đồng ý với nghiên cứu trước và ước tính isoflavones trong đậu nành có thể giúp giảm nguy cơ ung thư vú khoảng 16%, nhất là ở người châu Á[6].
Cả 2 nghiên cứu đều nhấn mạnh vai trò của isoflavones trong việc phòng ngừa ung thư vú ở phụ nữ.
Bệnh nhân ung thư vú ăn, uống thực phẩm từ đậu nành bao nhiêu là đủ?
Đối với nhóm bệnh nhân đang điều trị, các bằng chứng hiện có cho thấy việc tiêu thụ đậu nành có tác dụng tốt hoặc không có tác dụng đáng kể lên diễn tiến bệnh.
Một nghiên cứu tổng hợp với hơn 11.000 bệnh nhân ung thư vú cho thấy việc tiêu thụ đậu nành mỗi ngày làm giảm nguy cơ tử vong cũng như tái phát, đặc biệt là nhóm bệnh nhân ER-, ER+/PR+, và hậu mãn kinh[7].
Một phân tích sâu dựa trên 3 nghiên cứu, với hơn 9.500 bệnh nhân, kết luận rằng việc tiêu thụ ít nhất 10 mg isoflavone từ đậu nành mỗi ngày tuy không làm giảm đáng kể tỷ lệ tử vong vì bệnh nhưng có giảm đáng kể nguy cơ tái phát bệnh[8].
Hiện có rất ít khuyến cáo cho thấy lượng chính xác sản phẩm từ đậu nành có thể được tiêu thụ mỗi ngày. Liều lượng khuyên dùng mỗi bữa theo Viện Nghiên cứu ung thư Hoa Kỳ là[9]:
– 250ml sữa đậu nành.
Hoặc
– 30 gram đậu nành.
Và theo tổ chức dinh dưỡng uy tín Nutritionfact, chỉ nên ăn tối đa 2 đến 3 bữa như vậy mỗi ngày kể cả những người ăn chay. Lượng nhiều hơn có thể gây hại[11].
Điều đó không có nghĩa là chỉ dùng đậu nành là có thể phòng ngừa ung thư.
Một chế độ ăn uống đa dạng, thiên về thực vật, kết hợp với lối sống lành mạnh (không thuốc lá, không rượu bia, vận động thể chất thường xuyên), chích ngừa và tầm soát ung thư theo khuyến cáo vẫn là những định hướng quan trọng nhất để phòng bệnh.
Vì vậy, theo y học hiện nay, sữa đậu nành và các sản phẩm từ đậu nành nói chung tốt cho sức khỏe. Estrogen trong đậu nành không làm nặng thêm tình trạng ung thư vú mà ngược lại còn mang lại lợi ích cho bệnh nhân ung thư vú.
BS Nguyễn Sỹ Cam (Ruybangtim)
Góp ý nội dung: BS Trần Hoàng Hiệp
Tài liệu tham khảo.
1. Globocan 2018. http://gco.iarc.fr
2. Russo J1, Russo IH, The role of estrogen in the initiation of breast cancer. J Steroid Biochem Mol Biol . 2006 Dec;102(1-5):89-96.
3. Stefan O. Mueller, S.S., Kun Chae et.al, Phytoestrogens and Their Human Metabolites Show Distinct Agonistic and Antagonistic Properties on Estrogen Receptor α (ERα) and ERβ in Human Cells. Toxicological Sciences, 2004. 80(1): p. 14-25.
4. Agostino Molteni, L.B.-M., Victoria Persky, In vitro hormonal effects of soybean isoflavones. Journal of Nutrition, 1995. 125(3): p. 7515-7565.
5. Trock, B.J., L. Hilakivi-Clarke, and R. Clarke, Meta-analysis of soy intake and breast cancer risk. J Natl Cancer Inst, 2006. 98(7): p. 459-71.
6. Dong, J.Y. and L.Q. Qin, Soy isoflavones consumption and risk of breast cancer incidence or recurrence: a meta-analysis of prospective studies. Breast Cancer Restreat, 2011. 125(2): p. 315-23.
7. Chi, F., et al., Post-diagnosis soy food intake and breast cancer survival: a meta-analysis of cohort studies. Asian Pac J Cancer Prev, 2013. 14(4): p. 2407-12.
8. Nechuta, S.J., et al., Soy food intake after diagnosis of breast cancer and survival: an in-depth analysis of combined evidence from cohort studies of US and Chinese women. Am J Clin Nutr, 2012. 96(1): p. 123-32.
9. AICR’s Foods that Fight Cancer. http://www.aicr.org/foods-that-fight-cancer/soy.html.
10. Greger, M. How much soy is too much? 2012. http://nutritionfacts.org/video/how-much-soy-is-too-much/.
Ruy Băng Tím là tổ chức phi lợi nhuận về phòng chống ung thư tại Việt Nam, được thành lập vào ngày 12/12/2015 với sự tham gia của các bác sĩ ung bướu, các nhà khoa học nghiên cứu về ung thư trong và ngoài nước. Ruy Băng Tím nhằm xây dựng một website khoa học đáng tin cậy, chuyên cung cấp thông tin chính xác, đầy đủ về ung thư. Các bài viết đều được các tác giả tra cứu kỹ lưỡng trước khi viết, có dẫn nguồn đầy đủ để người đọc có thể tham khảo.
* Tiêu đề bài viết và đề mục trong bài do tòa soạn đặt.
Trí thức trẻ