Trưởng khoa Dinh dưỡng viện Nhi: Sai lầm khi áp dụng chế độ giảm cân rất nhiều người mắc
Theo TS Lưu Thị Mỹ Thục - Trưởng khoa Dinh dưỡng, bệnh viện Nhi Trung ương, không có chế độ ăn đặc biệt nào hữu hiệu cho thừa cân, béo phì cả, chế độ nào cũng có ưu và nhược điểm.
Cần coi béo phì là một bệnh cần điều trị
Thừa cân, béo phì là tình trạng tích luỹ năng lượng dư thừa dưới dạng các mô mỡ. Thừa cân béo phì không chỉ ảnh hưởng đến thẩm mỹ mà còn làm tăng nguy cơ mắc nhiều căn bệnh mãn tính rất nguy hiểm.
Thừa cân, béo phì là tình trạng tích lũy năng lượng dư thừa dưới dạng mỡ trắng, ảnh hưởng đến vóc dáng và làm tăng nguy cơ về sức khoẻ. Các nghiên cứu y khoa cho thấy những người bị tăng cân, béo phì có tỷ lệ bệnh tật cao hơn người bình thường, đặc biệt là các bệnh mãn tính nguy hiểm như tim mạch, tiểu đường, nội tiết, xương khớp, ung thư và suy giảm trí nhớ...
Mặc cho những hậu quả nghiêm trọng mà bệnh béo phì đem lại, căn bệnh này vẫn đang tiếp tục gia tăng trên toàn cầu. Theo TS Lưu Thị Mỹ Thục - Trưởng khoa Dinh dưỡng, bệnh viện Nhi Trung ương chia sẻ tại Hội thảo Phòng chống béo phì thừa cân: Lời cảnh báo của chuyên gia, từ năm 1980 - 2013, tỷ lệ thừa cân, béo phì trên thế giới tăng 27,5% ở người lớn và 47,1% ở trẻ em.
Tại Việt Nam, con số thống kê cũng rất đáng lưu ý. Thống kê chi tiết đến từng đơn vị hành chính cho thấy, thừa cân, béo phì của trẻ em ở trường mầm non thuộc quận Đống Đa là 21,1%, Ba Vì 7,6%. Năm 2003 tại Đống Đa, thừa cân béo phì ở trẻ 4 - 6 tuổi là 2,5%, học sinh tiểu học là 7,6%.Tại TP. HCM tỷ lệ thừa cân là 17,8%, béo phì 3,2%.
Bà Lưu Thị Mỹ Thục cho rằng, sở dĩ điều trị béo phì khó khăn vì bản thân bố mẹ không nghĩ béo phì là bệnh. Chúng ta cần xác định béo phì là bệnh, có bệnh thì phải chữa. Vì không nghĩ béo phì là bệnh nên người ta chỉ đề cập đến phòng ngừa thừa cân béo phì mà không nói việc điều trị bệnh béo phì.
Nhưng béo phì thật sự là một bệnh có diễn biến trong thời gian dài. Xác định như vậy để có quyết tâm điều trị hơn.
Những sai lầm khi áp dụng chế độ ăn giảm cân
Không có chế độ ăn đặc biệt nào hữu hiệu cho thừa cân, béo phì cả. Những chế độ ăn đó sẽ có những ưu điểm hoặc hạn chế như sau:
Chế độ ăn giảm tinh bột có tác dụng giảm cân rất nhanh giai đoạn đầu nhưng sau đó không có hiệu quả vì khi giảm tinh bột đường trong não sẽ thiếu, cơ thể mệt mỏi. Nếu ăn bù thì tình trạng lại quay lại như cũ.
Chế độ ăn giàu protit giảm tinh bột, hiệu quả giảm cân chỉ trong giai đoạn đầu. Chế độ ăn kiêng này không làm giảm tổng năng lượng trong khi điều quan trọng nhất là tổng năng lượng phải giảm thì mới có tác dụng giảm cân, phòng ngừa béo phì. Cần kết hợp với các can thiệp khác thì mới có hiệu quả, nếu chỉ áp dụng một mình chế độ ăn thì không hiệu quả.
Bỏ bữa sáng: Có người bỏ bữa sáng sẽ giảm cân nhưng có người bỏ bữa sáng cũng không giảm cân bởi bỏ bữa sáng xong lại ăn bù vào bữa sau. Chính vì thế, nếu trẻ nhỏ có nghị lực giảm cân thì bỏ bữa sáng và bữa ăn sau cũng phải ăn ít đi.
Nghiên cứu chỉ ra, ở trẻ trai và trẻ gái có nhu cầu muốn giảm cân thì giảm ăn sáng sẽ giảm cân, chứ ăn bù bữa sau thì cũng không có tác dụng giảm cân. Tuy nhiên, bỏ bữa ăn sáng không tốt.
Bữa sáng liên quan đến tư duy logic của đứa bé đang lứa tuổi học đường, vậy nên không nên bỏ bữa sáng, bỏ bữa sáng ảnh hưởng đến học tập của đứa trẻ. Chúng ta vẫn nên cho trẻ ăn sáng, cân nhắc món ăn vào bữa sáng cho trẻ.
Trẻ em và phụ nữ là 2 đối tượng mắc phải tình trạng thừa cân, béo phì nặng nề nhất
Hiện nay trên toàn thế giới có khoảng 1,9 tỷ người lớn thừa cân béo phì, trong đó hơn 600 triệu người ở ngưỡng béo phì.
Trong đó, trẻ em và phụ nữ là 2 đối tượng mắc phải tình trạng trên nặng nề nhất.
Ở Việt Nam, tình trạng này khá tương đồng, trong khi chúng ta vừa phải đối đầu với tình trạng suy dinh dưỡng, thấp còi. Tuy nhiên, ở 2 thành phố lớn là Hà Nội và TP HCM chúng ta lại phải chiến đấu chống lại vấn nạn thừa cân, béo phì.
Kết quả nghiên cứu năm 2014 của Viện Dinh dưỡng, tỷ lệ thừa cân béo phì ở HN và TP HCM là 42% ở lứa tuổi trẻ cấp 1, sau 2 năm con số này tăng lên 48%.
(Bà Lê Thị Hoàng Yến - GĐ truyền thông và hỗ trợ tiếp thị Nestlé Việt Nam).