EVFTA: Áp lực lớn với cả nông nghiệp và công nghiệp Việt Nam
Đáng chú ý là các cam kết trong Hiệp định EVFTA chắc chắn sẽ tác động lớn đến lĩnh vực nông nghiệp và công nghiệp, trong đó những thách thức đối với các lĩnh vực này là không hề nhỏ.
Việt Nam và EU đang tiến gần đến việc ký kết Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và EU (EVFTA). Hiệp định này sẽ mang lại lợi ích cũng như thách thức cho nhiều ngành hàng và lĩnh vực chủ chốt của Việt Nam.
Đáng chú ý là các cam kết trong Hiệp định EVFTA chắc chắn sẽ tác động lớn đến lĩnh vực nông nghiệp và công nghiệp, trong đó những thách thức đối với các lĩnh vực này là không hề nhỏ.
Áp lực cạnh tranh trong nông nghiệp
Theo đánh giá của các chuyên gia Dự án EU-Mutrap (Dự án hỗ trợ thương mại đa biên của EU đối với Việt Nam), trong quá trình đàm phán Hiệp định EVFTA, lĩnh vực nông nghiệp và thủy sản là những ngành nhạy cảm đối với cả Việt Nam và EU.
Cả hai bên đều tiến hành áp dụng các mức độ cao nhất về bảo hộ và một loạt công cụ nhằm hỗ trợ trực tiếp hoặc trợ cấp thu nhập cho những ngành này.
Các vấn đề liên quan đến việc làm, xóa nghèo và phát triển nông thôn sẽ bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi những thay đổi chính sách trong ngành nông nghiệp.
Do đó, Việt Nam và EU đều có xu hướng che chắn cho ngành này trước sự áp lực cạnh tranh mạnh mẽ khi mở cửa thị trường.
Bà Đỗ Liên Hương, chuyên gia nhóm Nông nghiệp thuộc Dự án EU-Mutrap cho biết Việt Nam có những thế mạnh ở một số ngành hàng nông sản, đặc biệt có thể cạnh tranh trực tiếp với các ngành tương tự ở EU như càphê rang, cà chua, đường, gạo.
Tuy nhiên, Việt Nam cũng có yêu cầu lớn về đầu vào trong toàn bộ chuỗi cung ứng của ngành nông nghiệp chế biến với xu hướng nhập khẩu, điển hình trong năm 2013 có khoảng 70% thức ăn chăn nuôi phải nhập khẩu.
Mặt khác, Việt Nam có mức xuất khẩu cao ở một số ngành gồm hạt điều, thủy sản, nhưng lại ít hướng tới đẩy mạnh xuất khẩu trong các ngành công nghiệp sữa và sản phẩm từ sữa.
Ngoài ra, những biện pháp phi thế quan (NTM) có ý nghĩa quan trọng trong khu vực nông nghiệp gồm yêu cầu về vệ sinh, kiểm dịch; đóng gói, bao bì; khả năng truy soát nguồn gốc và thủ tục hải quan nghiêm ngặt, các tiêu chuẩn do EU áp đặt thường nằm trong số các tiêu chuẩn cao nhất trên thế giới và khó đạt được nhất với chi phí cao nhất là thách thức đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam.
Công nghiệp đối mặt nhiều thách thức
Theo ông Paul Baker, chuyên gia Dự án EU-Mutrap, phân tích tác động của EVFTA đối với lĩnh vực công nghiệp tập trung vào sáu ngành gồm dệt may, da giày, ôtô, công nghệ cao, hàng thủ công và sản phẩm gỗ qua xử lý.
Nhìn chung, tất cả các ngành đều ghi nhận mức độ tăng trưởng cao và có khả năng cạnh tranh nhưng bên cạnh những thuận lợi, ngành công nghiệp Việt Nam vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức.
EVFTA có thể giảm thuế và mang lại mức độ ưu đãi hơn so với những nhà nhập khẩu khác vào EU, điều này khiến sản phẩm da giày Việt Nam hưởng lợi một cách đáng kể.
Mặc dù vậy, ngành da giày Việt Nam vẫn phải đối mặt với cạnh tranh gay gắt từ các nước có ngành da giày phát triển như Ấn Độ, Indonesia, Thái Lan và dự kiến từ những thị trường đang nổi lên như Myanmar.
Ngành dệt may Việt Nam có mức độ phụ thuộc tương đối cao vào nhập khẩu nguyên liệu phục vụ sản xuất, giá trị gia tăng tạo ra của ngành tương đối thấp (ước tính chung ở mức 40%). Trong đó, nguyên liệu thô nhập chủ yếu từ Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan; còn máy móc thì từ các nước Trung Quốc, Nhật Bản...
Ngành dệt may Việt Nam khó có thể vượt lên các nước có lợi thế cạnh tranh bằng giá, tiêu chuẩn cũng như thiết kết và lợi thế công nghệ.
Bà Nguyễn Minh Thảo, chuyên gia thuộc Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương đánh giá, ngành chế biến gỗ của Việt Nam phụ thuộc mạnh mẽ vào nhập khẩu gỗ nguyên liệu và phụ kiện (chiếm 30-40% giá trị sản phẩm), đồng thời khoảng 80% nguyên liệu gỗ sử dụng trong ngành là nhập khẩu.
Thêm vào đó, các mức độ yêu cầu cao của người tiêu dùng EU cũng như quy tắc xuất xứ và những quy định của EU về đăng ký, đánh giá, chứng nhận và hạn chế hóa chất là những rào cản đáng kể với Việt Nam.
Bên cạnh đó, ngành thủ công mỹ nghệ, phụ thuộc chủ yếu vào nguồn lực trong nước (mây, tre, gỗ, gốm), nhưng gần đây Việt Nam bắt đầu nhập khẩu nguyên vật liệu từ Trung Quốc, Lào, Campuchia.
Những hạn chế từ giá nguyên vật liệu, năng lượng, vận chuyển cao cho đến các tiêu chuẩn chất lượng cao cho thấy ngành chế biến gỗ và thủ công mỹ nghệ Việt Nam gặp phải sự cạnh tranh gay gắt với các nước khác để tiếp cận thị trường EU./.Việt Nam và EU đang tiến gần đến việc ký kết Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và EU (EVFTA). Hiệp định này sẽ mang lại lợi ích cũng như thách thức cho nhiều ngành hàng và lĩnh vực chủ chốt của Việt Nam.
Đáng chú ý là các cam kết trong Hiệp định EVFTA chắc chắn sẽ tác động lớn đến lĩnh vực nông nghiệp và công nghiệp, trong đó những thách thức đối với các lĩnh vực này là không hề nhỏ.
Áp lực cạnh tranh trong nông nghiệp
Theo đánh giá của các chuyên gia Dự án EU-Mutrap (Dự án hỗ trợ thương mại đa biên của EU đối với Việt Nam), trong quá trình đàm phán Hiệp định EVFTA, lĩnh vực nông nghiệp và thủy sản là những ngành nhạy cảm đối với cả Việt Nam và EU.
Cả hai bên đều tiến hành áp dụng các mức độ cao nhất về bảo hộ và một loạt công cụ nhằm hỗ trợ trực tiếp hoặc trợ cấp thu nhập cho những ngành này.
Các vấn đề liên quan đến việc làm, xóa nghèo và phát triển nông thôn sẽ bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi những thay đổi chính sách trong ngành nông nghiệp.
Do đó, Việt Nam và EU đều có xu hướng che chắn cho ngành này trước sự áp lực cạnh tranh mạnh mẽ khi mở cửa thị trường.
Bà Đỗ Liên Hương, chuyên gia nhóm Nông nghiệp thuộc Dự án EU-Mutrap cho biết Việt Nam có những thế mạnh ở một số ngành hàng nông sản, đặc biệt có thể cạnh tranh trực tiếp với các ngành tương tự ở EU như càphê rang, cà chua, đường, gạo.
Tuy nhiên, Việt Nam cũng có yêu cầu lớn về đầu vào trong toàn bộ chuỗi cung ứng của ngành nông nghiệp chế biến với xu hướng nhập khẩu, điển hình trong năm 2013 có khoảng 70% thức ăn chăn nuôi phải nhập khẩu.
Mặt khác, Việt Nam có mức xuất khẩu cao ở một số ngành gồm hạt điều, thủy sản, nhưng lại ít hướng tới đẩy mạnh xuất khẩu trong các ngành công nghiệp sữa và sản phẩm từ sữa.
Ngoài ra, những biện pháp phi thế quan (NTM) có ý nghĩa quan trọng trong khu vực nông nghiệp gồm yêu cầu về vệ sinh, kiểm dịch; đóng gói, bao bì; khả năng truy soát nguồn gốc và thủ tục hải quan nghiêm ngặt, các tiêu chuẩn do EU áp đặt thường nằm trong số các tiêu chuẩn cao nhất trên thế giới và khó đạt được nhất với chi phí cao nhất là thách thức đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam.
Công nghiệp đối mặt nhiều thách thức
Theo ông Paul Baker, chuyên gia Dự án EU-Mutrap, phân tích tác động của EVFTA đối với lĩnh vực công nghiệp tập trung vào sáu ngành gồm dệt may, da giày, ôtô, công nghệ cao, hàng thủ công và sản phẩm gỗ qua xử lý.
Nhìn chung, tất cả các ngành đều ghi nhận mức độ tăng trưởng cao và có khả năng cạnh tranh nhưng bên cạnh những thuận lợi, ngành công nghiệp Việt Nam vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức.
EVFTA có thể giảm thuế và mang lại mức độ ưu đãi hơn so với những nhà nhập khẩu khác vào EU, điều này khiến sản phẩm da giày Việt Nam hưởng lợi một cách đáng kể.
Mặc dù vậy, ngành da giày Việt Nam vẫn phải đối mặt với cạnh tranh gay gắt từ các nước có ngành da giày phát triển như Ấn Độ, Indonesia, Thái Lan và dự kiến từ những thị trường đang nổi lên như Myanmar.
Ngành dệt may Việt Nam có mức độ phụ thuộc tương đối cao vào nhập khẩu nguyên liệu phục vụ sản xuất, giá trị gia tăng tạo ra của ngành tương đối thấp (ước tính chung ở mức 40%). Trong đó, nguyên liệu thô nhập chủ yếu từ Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan; còn máy móc thì từ các nước Trung Quốc, Nhật Bản...
Ngành dệt may Việt Nam khó có thể vượt lên các nước có lợi thế cạnh tranh bằng giá, tiêu chuẩn cũng như thiết kết và lợi thế công nghệ.
Bà Nguyễn Minh Thảo, chuyên gia thuộc Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương đánh giá, ngành chế biến gỗ của Việt Nam phụ thuộc mạnh mẽ vào nhập khẩu gỗ nguyên liệu và phụ kiện (chiếm 30-40% giá trị sản phẩm), đồng thời khoảng 80% nguyên liệu gỗ sử dụng trong ngành là nhập khẩu.
Thêm vào đó, các mức độ yêu cầu cao của người tiêu dùng EU cũng như quy tắc xuất xứ và những quy định của EU về đăng ký, đánh giá, chứng nhận và hạn chế hóa chất là những rào cản đáng kể với Việt Nam.
Bên cạnh đó, ngành thủ công mỹ nghệ, phụ thuộc chủ yếu vào nguồn lực trong nước (mây, tre, gỗ, gốm), nhưng gần đây Việt Nam bắt đầu nhập khẩu nguyên vật liệu từ Trung Quốc, Lào, Campuchia.
Những hạn chế từ giá nguyên vật liệu, năng lượng, vận chuyển cao cho đến các tiêu chuẩn chất lượng cao cho thấy ngành chế biến gỗ và thủ công mỹ nghệ Việt Nam gặp phải sự cạnh tranh gay gắt với các nước khác để tiếp cận thị trường EU./.
Đáng chú ý là các cam kết trong Hiệp định EVFTA chắc chắn sẽ tác động lớn đến lĩnh vực nông nghiệp và công nghiệp, trong đó những thách thức đối với các lĩnh vực này là không hề nhỏ.
Áp lực cạnh tranh trong nông nghiệp
Theo đánh giá của các chuyên gia Dự án EU-Mutrap (Dự án hỗ trợ thương mại đa biên của EU đối với Việt Nam), trong quá trình đàm phán Hiệp định EVFTA, lĩnh vực nông nghiệp và thủy sản là những ngành nhạy cảm đối với cả Việt Nam và EU.
Cả hai bên đều tiến hành áp dụng các mức độ cao nhất về bảo hộ và một loạt công cụ nhằm hỗ trợ trực tiếp hoặc trợ cấp thu nhập cho những ngành này.
Các vấn đề liên quan đến việc làm, xóa nghèo và phát triển nông thôn sẽ bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi những thay đổi chính sách trong ngành nông nghiệp.
Do đó, Việt Nam và EU đều có xu hướng che chắn cho ngành này trước sự áp lực cạnh tranh mạnh mẽ khi mở cửa thị trường.
Bà Đỗ Liên Hương, chuyên gia nhóm Nông nghiệp thuộc Dự án EU-Mutrap cho biết Việt Nam có những thế mạnh ở một số ngành hàng nông sản, đặc biệt có thể cạnh tranh trực tiếp với các ngành tương tự ở EU như càphê rang, cà chua, đường, gạo.
Tuy nhiên, Việt Nam cũng có yêu cầu lớn về đầu vào trong toàn bộ chuỗi cung ứng của ngành nông nghiệp chế biến với xu hướng nhập khẩu, điển hình trong năm 2013 có khoảng 70% thức ăn chăn nuôi phải nhập khẩu.
Mặt khác, Việt Nam có mức xuất khẩu cao ở một số ngành gồm hạt điều, thủy sản, nhưng lại ít hướng tới đẩy mạnh xuất khẩu trong các ngành công nghiệp sữa và sản phẩm từ sữa.
Ngoài ra, những biện pháp phi thế quan (NTM) có ý nghĩa quan trọng trong khu vực nông nghiệp gồm yêu cầu về vệ sinh, kiểm dịch; đóng gói, bao bì; khả năng truy soát nguồn gốc và thủ tục hải quan nghiêm ngặt, các tiêu chuẩn do EU áp đặt thường nằm trong số các tiêu chuẩn cao nhất trên thế giới và khó đạt được nhất với chi phí cao nhất là thách thức đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam.
Công nghiệp đối mặt nhiều thách thức
Theo ông Paul Baker, chuyên gia Dự án EU-Mutrap, phân tích tác động của EVFTA đối với lĩnh vực công nghiệp tập trung vào sáu ngành gồm dệt may, da giày, ôtô, công nghệ cao, hàng thủ công và sản phẩm gỗ qua xử lý.
Nhìn chung, tất cả các ngành đều ghi nhận mức độ tăng trưởng cao và có khả năng cạnh tranh nhưng bên cạnh những thuận lợi, ngành công nghiệp Việt Nam vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức.
EVFTA có thể giảm thuế và mang lại mức độ ưu đãi hơn so với những nhà nhập khẩu khác vào EU, điều này khiến sản phẩm da giày Việt Nam hưởng lợi một cách đáng kể.
Mặc dù vậy, ngành da giày Việt Nam vẫn phải đối mặt với cạnh tranh gay gắt từ các nước có ngành da giày phát triển như Ấn Độ, Indonesia, Thái Lan và dự kiến từ những thị trường đang nổi lên như Myanmar.
Ngành dệt may Việt Nam có mức độ phụ thuộc tương đối cao vào nhập khẩu nguyên liệu phục vụ sản xuất, giá trị gia tăng tạo ra của ngành tương đối thấp (ước tính chung ở mức 40%). Trong đó, nguyên liệu thô nhập chủ yếu từ Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan; còn máy móc thì từ các nước Trung Quốc, Nhật Bản...
Ngành dệt may Việt Nam khó có thể vượt lên các nước có lợi thế cạnh tranh bằng giá, tiêu chuẩn cũng như thiết kết và lợi thế công nghệ.
Bà Nguyễn Minh Thảo, chuyên gia thuộc Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương đánh giá, ngành chế biến gỗ của Việt Nam phụ thuộc mạnh mẽ vào nhập khẩu gỗ nguyên liệu và phụ kiện (chiếm 30-40% giá trị sản phẩm), đồng thời khoảng 80% nguyên liệu gỗ sử dụng trong ngành là nhập khẩu.
Thêm vào đó, các mức độ yêu cầu cao của người tiêu dùng EU cũng như quy tắc xuất xứ và những quy định của EU về đăng ký, đánh giá, chứng nhận và hạn chế hóa chất là những rào cản đáng kể với Việt Nam.
Bên cạnh đó, ngành thủ công mỹ nghệ, phụ thuộc chủ yếu vào nguồn lực trong nước (mây, tre, gỗ, gốm), nhưng gần đây Việt Nam bắt đầu nhập khẩu nguyên vật liệu từ Trung Quốc, Lào, Campuchia.
Những hạn chế từ giá nguyên vật liệu, năng lượng, vận chuyển cao cho đến các tiêu chuẩn chất lượng cao cho thấy ngành chế biến gỗ và thủ công mỹ nghệ Việt Nam gặp phải sự cạnh tranh gay gắt với các nước khác để tiếp cận thị trường EU./.Việt Nam và EU đang tiến gần đến việc ký kết Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và EU (EVFTA). Hiệp định này sẽ mang lại lợi ích cũng như thách thức cho nhiều ngành hàng và lĩnh vực chủ chốt của Việt Nam.
Đáng chú ý là các cam kết trong Hiệp định EVFTA chắc chắn sẽ tác động lớn đến lĩnh vực nông nghiệp và công nghiệp, trong đó những thách thức đối với các lĩnh vực này là không hề nhỏ.
Áp lực cạnh tranh trong nông nghiệp
Theo đánh giá của các chuyên gia Dự án EU-Mutrap (Dự án hỗ trợ thương mại đa biên của EU đối với Việt Nam), trong quá trình đàm phán Hiệp định EVFTA, lĩnh vực nông nghiệp và thủy sản là những ngành nhạy cảm đối với cả Việt Nam và EU.
Cả hai bên đều tiến hành áp dụng các mức độ cao nhất về bảo hộ và một loạt công cụ nhằm hỗ trợ trực tiếp hoặc trợ cấp thu nhập cho những ngành này.
Các vấn đề liên quan đến việc làm, xóa nghèo và phát triển nông thôn sẽ bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi những thay đổi chính sách trong ngành nông nghiệp.
Do đó, Việt Nam và EU đều có xu hướng che chắn cho ngành này trước sự áp lực cạnh tranh mạnh mẽ khi mở cửa thị trường.
Bà Đỗ Liên Hương, chuyên gia nhóm Nông nghiệp thuộc Dự án EU-Mutrap cho biết Việt Nam có những thế mạnh ở một số ngành hàng nông sản, đặc biệt có thể cạnh tranh trực tiếp với các ngành tương tự ở EU như càphê rang, cà chua, đường, gạo.
Tuy nhiên, Việt Nam cũng có yêu cầu lớn về đầu vào trong toàn bộ chuỗi cung ứng của ngành nông nghiệp chế biến với xu hướng nhập khẩu, điển hình trong năm 2013 có khoảng 70% thức ăn chăn nuôi phải nhập khẩu.
Mặt khác, Việt Nam có mức xuất khẩu cao ở một số ngành gồm hạt điều, thủy sản, nhưng lại ít hướng tới đẩy mạnh xuất khẩu trong các ngành công nghiệp sữa và sản phẩm từ sữa.
Ngoài ra, những biện pháp phi thế quan (NTM) có ý nghĩa quan trọng trong khu vực nông nghiệp gồm yêu cầu về vệ sinh, kiểm dịch; đóng gói, bao bì; khả năng truy soát nguồn gốc và thủ tục hải quan nghiêm ngặt, các tiêu chuẩn do EU áp đặt thường nằm trong số các tiêu chuẩn cao nhất trên thế giới và khó đạt được nhất với chi phí cao nhất là thách thức đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam.
Công nghiệp đối mặt nhiều thách thức
Theo ông Paul Baker, chuyên gia Dự án EU-Mutrap, phân tích tác động của EVFTA đối với lĩnh vực công nghiệp tập trung vào sáu ngành gồm dệt may, da giày, ôtô, công nghệ cao, hàng thủ công và sản phẩm gỗ qua xử lý.
Nhìn chung, tất cả các ngành đều ghi nhận mức độ tăng trưởng cao và có khả năng cạnh tranh nhưng bên cạnh những thuận lợi, ngành công nghiệp Việt Nam vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức.
EVFTA có thể giảm thuế và mang lại mức độ ưu đãi hơn so với những nhà nhập khẩu khác vào EU, điều này khiến sản phẩm da giày Việt Nam hưởng lợi một cách đáng kể.
Mặc dù vậy, ngành da giày Việt Nam vẫn phải đối mặt với cạnh tranh gay gắt từ các nước có ngành da giày phát triển như Ấn Độ, Indonesia, Thái Lan và dự kiến từ những thị trường đang nổi lên như Myanmar.
Ngành dệt may Việt Nam có mức độ phụ thuộc tương đối cao vào nhập khẩu nguyên liệu phục vụ sản xuất, giá trị gia tăng tạo ra của ngành tương đối thấp (ước tính chung ở mức 40%). Trong đó, nguyên liệu thô nhập chủ yếu từ Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan; còn máy móc thì từ các nước Trung Quốc, Nhật Bản...
Ngành dệt may Việt Nam khó có thể vượt lên các nước có lợi thế cạnh tranh bằng giá, tiêu chuẩn cũng như thiết kết và lợi thế công nghệ.
Bà Nguyễn Minh Thảo, chuyên gia thuộc Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương đánh giá, ngành chế biến gỗ của Việt Nam phụ thuộc mạnh mẽ vào nhập khẩu gỗ nguyên liệu và phụ kiện (chiếm 30-40% giá trị sản phẩm), đồng thời khoảng 80% nguyên liệu gỗ sử dụng trong ngành là nhập khẩu.
Thêm vào đó, các mức độ yêu cầu cao của người tiêu dùng EU cũng như quy tắc xuất xứ và những quy định của EU về đăng ký, đánh giá, chứng nhận và hạn chế hóa chất là những rào cản đáng kể với Việt Nam.
Bên cạnh đó, ngành thủ công mỹ nghệ, phụ thuộc chủ yếu vào nguồn lực trong nước (mây, tre, gỗ, gốm), nhưng gần đây Việt Nam bắt đầu nhập khẩu nguyên vật liệu từ Trung Quốc, Lào, Campuchia.
Những hạn chế từ giá nguyên vật liệu, năng lượng, vận chuyển cao cho đến các tiêu chuẩn chất lượng cao cho thấy ngành chế biến gỗ và thủ công mỹ nghệ Việt Nam gặp phải sự cạnh tranh gay gắt với các nước khác để tiếp cận thị trường EU./.
Theo Mỹ Phương