[Họp quốc hội] Cần hạn chế vay ngắn hạn để giảm áp lực trả nợ
Bộ trưởng Bộ tài chính Đinh Tiến Dũng cho biết các chỉ số về nợ công, nợ chính phủ, nợ quốc gia … vẫn trong giới hạn cho phép; nhưng còn đứng trước nhiều khó khăn và thách thức.
- 29-10-2014Thủ tướng: Kiểm soát chặt nợ công, quyết liệt xử lý nợ xấu
- 24-10-2014Ngưỡng an toàn của nợ công có an toàn?
Chiều ngày 30/10/2014 Quốc hội tiếp tục thảo tại Hội trường về tình hình kinh tế - xã hội năm 2014 và nhiệm vụ năm 2015.
Trong phiên thảo luận chiều nay, bên cạnh sự tham gia của các Đại biểu Quốc hội, Bộ trưởng Bộ Tài chính và Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ có những giải trình về các ý kiến của Đại biểu phát biểu trong sáng nay.
Theo Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng, tình hình nợ công trong thời gian qua là nỗi băn khoăn, trăn trở của nhiều cử tri và Đại biểu Quốc hội. Trước những kiến nghị của cử tri và Đại biểu Quốc hội, Bộ tài chính có các ý kiến tiếp thu và giải trình về thực trạng nợ công.
Trước năm 2010, Việt Nam chưa có quy định pháp lý về thực trang nợ công. Các chỉ số về nợ ở mức thấp phù hợp với định hướng của Chính phủ. Nợ chính phủ và nợ nước ngoài của quốc gia không quá 50% GDP.
Cụ thể, dự nợ chính phủ năm 2011 ở mức 35% GDP; năm 2006 là 35,2% GDP; đến năm 2009 tăng lên 41,9% GDP do tăng vay nợ để kích cầu.
(Xem thêm: Thủ tướng: Nếu tính cả đảo nợ thì nợ công của Việt Nam là 26,2% GDP)
Dư nợ quốc gia năm 2011 ở mức 38,1% và đến 2009 tăng lên 38,8% GDP. Từ năm 2010 đến nay, luật quản lý nợ công có hiệu lực thi hành, tạo cơ sở pháp lý quan trọng, công tác quản lý nợ có nhiều chuyển biến tích cực.
Vốn vay đã bổ sung nguồn vốn đáng kể, đầu tư xã hội và đầu tư ngân sách nhà nước, nhiều dự án lớn như hạ tầng giao thông đã đi vào sử dụng, góp phần thúc đẩy sản xuất, xóa đói giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội.
Trong điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn, tăng trưởng kinh tế chậm lại; cân đối ngân sách nhà nước cùng lúc phải sắp xếp, cân đối nguồn lực để thực hiện nhiều giải pháp quan trọng; dẫn đến tỷ trọng chi đầu tư phát triển trong ngân sách nhà nước giảm so với các giai đoạn trước.
Từ năm 2010, VN đã phải huy động trái phiếu Chính phủ cho đầu tư lớn. Bội chi ngân sách cao, cùng với việc thúc đẩy nhanh giải ngân ODA, dư nợ công tăng nhanh cả về số tuyệt đối và tỷ lệ so với GDP. Năm 2011 nợ công chiếm 50% GDP; tăng 24,8% so với năm trước; năm 2012 là 50,8% GDP; tăng 18,4%; ước 2014 nợ công là 60,3% GDP; tăng 23,3%; dự kiến năm 2015 là 64% GDP; tăng 19,9%.
Bộ trưởng Bộ tài chính cho biết, trong thời gian qua, các chỉ số về nợ công, nợ chính phủ, nợ quốc gia … vẫn trong giới hạn cho phép; nhưng còn đứng trước nhiều khó khăn và thách thức. VN đã đảm bảo trả đủ, kịp thời nợ đến hạn; không làm phát sinh nợ xấu.
Cơ cấu các khoản nợ vay trong nước tăng góp phần giảm tỷ lệ vay nước ngoài và rủi ro về tỷ giá; đồng thời cho thấy sự tự chủ của kinh tế trong nước.
Dư nợ trong nước của Chính phủ tăng từ 43% năm 2010 lên 54,5% năm 2014. Nợ nước ngoài giảm tương ứng từ 59,7% năm 2010 xuống còn 45,5% năm 2014. Về sử dụng tiền vay, vay đầu tư chiếm 98,1%; vay ngân sách 1,4%; vay chi sự nghiệp 0,4%.
Bên cạnh đó, Bộ trưởng Bộ tài chính cũng chỉ ra những tồn tại hạn chế của vấn đề nợ công, nợ xấu trong thời gian qua.
(i) Về thể chế, luật đã quy định nợ công gồm nợ chính phủ, nợ được chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương. Tuy nhiên vẫn còn nhiều ý kiến tranh cãi về phạm vi của nợ công
(ii) Dư nợ công tăng nhanh, cuối 2015 đã sát ngưỡng quy định của Chính phủ. Cơ cấu nợ chưa thực sự bền vững, các khoản vay trong nước đã tăng lên trong những năm gần đây nhưng chủ yếu là vay ngắn hạn. Thời hạn vay nợ trong nước trung bình chỉ khoảng 4,4 năm, riêng trái phiếu Chính phủ là 2,6 năm làm tăng áp lực chi trả ngắn hạn. Thực tế trong những năm qua chúng ta đã phải đảo nợ để trả nợ khi đến hạn. Dự kiến số nợ phải trả năm 2014 là 77 nghìn tỷ.
(iii) Áp lực huy động vốn hàng năm lớn, chi phí huy động vốn cao mặc dù đã có xu hướng giảm trong 2 năm gần đây. Lãi suất trái phiếu Chính phủ năm 2010 là 10,85%/ năm; 2011 là 11,9%/ năm; 2012 là 10,03%/ năm; 2013 là 7,96%/ năm và 10 tháng đầu năm 2014 là 6,81%/năm. Sử dụng vốn vay ngắn hạn cho đầu tư dài hạn phát sinh rủi ro, làm áp lực trả nợ tăng nhanh. Năm 2012-2013, trái phiếu chính phủ kỳ hạn dưới 5 năm chiếm 77-78% trong tổng số phát hành. Nghĩa vụ trả nợ ngân sách nhà nước có xu hướng tăng nhanh.
(iv) Bên cạnh đó, một số dự án vay lại nguồn vốn nước ngoài, dự án được chính phủ bảo lãnh vay vốn nước ngoài không hiệu quả, không trả được nợ làm phát sinh nghĩa vụ nợ dự phòng hoặc phải tái cơ cấu tài chính, chuyển sang cơ chế nhà nước đầu tư vốn, làm tăng nghĩa vụ chi trả nợ trực tiếp của Chính phủ. Con số này có nhưng không quá lớn.
(v) Công tác phối hợp bộ ngành địa phương, chủ dự án trong việc quản lý còn nhiều bất cập, chưa chặt chẽ, chưa có chế tài xử lý đối với các trường hợp vi phạm trong việc huy động vốn.
(>>>“Chính phủ sẽ tiếp tục tập trung và dứt khoát kiểm soát nợ công”)
Trước thực trạng đó, Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng cũng chỉ ra những nguyên nhân của tồn tại và hạn chế.
Thứ nhất, là áp lực tăng vay nợ cho đầu tư phát triển dẫn đến tăng nhanh nợ công. Trong điều kiện khó khăn, Chính phủ vẫn phải duy trì bội chi ngân sách ở mức cao và tăng phát hành trái phiếu Chính phủ cho đầu tư phát triển. Đồng thời, do cân đối khó khăn nên phải đảo nợ phần nợ gốc. Đồng thời phát hành trái phiểu để thực hiện các chính sách; tăng vay vốn nước ngoài để thực hiện một số dự án lớn trọng điểm của quốc gia; đặc biệt là các dự án ngành điện, điện hạt nhân và hàng không.
Thứ hai, do thị trường vốn chưa phát triển. Việc phát hành trái phiếu chính phủ mới chỉ đáp ứng được khoảng 50-70% yêu cầu huy động vốn hàng năm. Năm 2011, huy động được 49,5%; năm 2012 là 69,5%; năm 2013 là 59,3%; và năm 2014 khoảng 65%. Bên cạnh đó, kỳ hạn các nguồn vay ngắn hạn vẫn chiếm tỷ lệ cao, làm tăng áp lực trả nợ ngắn hạn. Nhiều khoản vay ngoài nước đến hạn trả nợ vào năm 2015-2016; do vậy áp lực trả nợ năm 2015-2016 là rất lớn.
Thứ ba, các nguồn vốn chưa bám sát các hạng mức nợ, chưa gắn đầy đủ trách nhiệm tới các cơ quan, ban ngành và địa phương.
Thứ tư, một số chủ dự án chưa thực hiện tốt các khâu chuẩn bị đầy đủ, thẩm định, phê duyệt dự án dẫn đến vướng mắt trong thực hiện làm giảm hiệu quả đầu tư. Nhiều dự án điều chỉnh tăng quy mô dẫn đến phải tăng vay nợ, tạo áp lực gia tăng nợ công.
Thứ năm, công tác quản lý còn phân tán, nhiều đầu mối ở các bộ ngành địa phương, năng lực giám sát nợ công còn hạn chế, chưa thực hiện tốt quy định trong việc tổng hợp, báo cáo và công khai thông tin nợ công theo quy định.
Về giải pháp, theo Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng, một số nhóm giải pháp trọng tâm bao gồm:
(i)Trình quốc hội thông qua dự án luật ngân sách nhà nước, luật quản lý nợ công sửa đổi nhằm nâng cao hiệu quả quản lý
(ii) Tập trung giải quyết, tháo gỡ khó khăn, chống thất thu, chống buôn lậu gian lận, giảm thủ tục hành chính trong các lĩnh vực; đặc biệt là lĩnh vực thuế và hải quan.
(iii) Tiết kiệm chi ngân sách, tăng cường thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng lãng phí. Rà soát quản lý chặt chẽ các khoản chi ngân sách nhà nước, giảm các chi mua sắm trang thiết bị, kinh phí tổ chức hội nghị hội thảo, công tác nước ngoài …
(iv) Rà soát tổng thể các chính sách an sinh xã hội, các chương trình mục tiêu quốc gia; cắt giảm lồng ghép chính sách, xây dựng lộ trình quy mô phù hợp đối với từng nhóm chính sách để thực hiện trong giai đoạn 2016-2020.
(v) Chi đầu tư phát triển: phân bổ tập trung và có hiệu quả; ưu tiên kết cấu hạ tầng, kêu gọi đầu tư công tư, không sử dụng ngân sách nhà nước để tăng nguồn lực đầu tư toàn xã hội.
(vi) Tiếp tục phát triển thị trường tài chính, trái phiếu. tăng các khoản vay trung và dài hạn, hạn chế vay ngắn hạn; loại bỏ các dự án không hiệu quả, nâng cao hiệu quả các khoản vay về cho vay lại.
(vii) Thực hiện lộ trình giảm bội chi ngân sách nhà nước, giữ mức trần nợ công không quá 65%; nợ chính phủ không quá 55%; nợ nước ngoài của quốc gia không quá 50% GDP.
>>> [Họp quốc hội] Nợ công là bài toán mà quốc gia nào cũng gặp phải
Nguyệt Quế