[Q&A] Toàn cảnh về bức tranh kinh tế VN với đại diện IMF
Trong 2 năm gần đây, Việt Nam đã đạt mục tiêu duy trì ổn định kinh tế vĩ mô. Lạm phát giảm xuống mức một con số trong thời gian dài, một phần nhờ giá dầu thế giới giảm mạnh vào những tháng cuối năm 2014…
- 03-03-2015Kinh tế vĩ mô 2015: Mục tiêu và thách thức
- 30-12-2014Năm 2014, kinh tế Việt Nam đạt mức tăng trưởng khả quan
- 24-04-2013Đại diện IMF: Kinh tế vĩ mô của Việt Nam đang đi đúng hướng
Nội dung nổi bật:
- Ông Sanjay Kalra – đại diện IMF nhận định, tiến trình tái cơ cấu của Việt Nam đã đạt được những kết quả ban đầu quan trọng, nhưng cần đẩy nhanh tiến độ.
- Lạm phát tiếp tục giảm hứa hẹn tạo dư địa cho việc hạ thêm lãi suất, nhưng việc hạ lãi suất chỉ có thể biến thành tăng trưởng tín dụng nếu các vấn đề trong hệ thống ngân hàng được giải quyết.
- Để đẩy nhanh tiến trình xử lý nợ xấu, VAMC cần có thẩm quyền lớn hơn về xử lý tài sản thế chấp, và các trở ngại pháp lý về xử lý tài sản thế chấp trên thị trường nợ xấu cần phải được khắc phục.
Theo nhận định của tờ Wall Street Journal, trong những năm gần đây, Việt Nam đã duy trì kinh tế vĩ mô ổn định với lạm phát thấp và tăng trưởng ngày càng phục hồi.
“Năm 2014, quốc gia Đông Nam Á này đã đạt mức tăng trưởng ấn tượng 5,98%; vượt mục tiêu 5,8% mà Chính phủ đề ra và cao hơn so với mức tăng 5,42% của năm 2013. Cùng với đó, lạm phát giảm xuống mức 1,84% - mức thấp nhất trong hơn một thập kỷ nhờ giá dầu thế giới giảm mạnh” – Chuyên gia kinh tế của Wall Street Journal nhận định.
Tuy nhiên, áp lực nợ công của Việt Nam đang ngày càng tăng lên, trong khi nỗ lực giải quyết nợ xấu trong hệ thống ngân hàng vẫn gặp nhiều thách thức. Tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước còn chậm và hiệu quả chưa cao.
Ngày 4/3, Đại diện thường trực của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) tại Việt Nam, ông Sanjay Kalra, đã có cuộc trao đổi với Wall Street Journal về bức tranh kinh tế Việt Nam và những kiến nghị để Việt Nam đạt mức tăng trưởng bền vững trong những năm tới.
Ông đánh giá thế nào về bức tranh kinh tế Việt Nam hiện nay?
Ông Sanjay Kalra: Trong 2 năm gần đây, Việt Nam đã đạt mục tiêu duy trì ổn định kinh tế vĩ mô. Lạm phát giảm xuống mức một con số trong thời gian dài, một phần nhờ giá dầu thế giới giảm mạnh vào những tháng cuối năm 2014. Bên cạnh đó, tăng trưởng GDP thực tế dần hồi phục và đạt khoảng 6% vào năm 2014 nhờ xuất khẩu tăng trưởng và dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tăng mạnh.
Nhu cầu trong nước dần hồi phục tuy còn hơi chậm, dòng vốn tăng cao và tiêu dùng phục hồi nhẹ. Có những dấu hiệu cho thấy ngành bất động sản và xây dựng, vốn phục hồi chậm, cũng đang dần khởi sắc. Tỷ giá hối đoái tiếp tục ổn định, cán cân vãng lai thặng dư và dự trữ ngoại hối đã tăng lên từ mức đáy vào giữa năm 2011.
Trên cơ sở đó, một số tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc tế đã công nhận những thành tựu và nâng bậc xếp hạng tín nhiệm cho Việt Nam. Việt Nam đã quay trở lại thị trường vốn quốc tế thông qua đợt phát hành trái phiếu 1 tỷ USD trong năm 2014 với các điều kiện thuận lợi. Tuy vậy, thâm hụt ngân sách tăng và việc bảo lãnh cho nợ của các doanh nghiệp nhà nước đã dẫn tới nợ công tăng nhanh đáng ngại.
Tiến trình tái cơ cấu của Việt Nam đã đạt được những kết quả ban đầu quan trọng, nhưng cần đẩy nhanh tiến độ. Bên cạnh đó, vẫn còn nhiều việc phải làm để cải tổ hệ thống ngân hàng và doanh nghiệp nhà nước. Trong năm 2015, một số vụ sáp nhập ngân hàng đã được lên kế hoạch và điều này sẽ góp phần giảm gánh nặng đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Sáp nhập ngân hàng yếu sẽ giải quyết được các vấn đề trước mắt, nhưng cải cách toàn diện, bao gồm giảm nợ xấu trong hệ thống ngân hàng, tăng vốn dự phòng, và cải thiện lợi nhuận cần được cụ thể hóa và đẩy nhanh tốc độ thực hiện.
Việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước đang đi đúng hướng, song tốc độ còn chậm. Cổ phần hóa trong thời gian gần đây, nhất là trong các doanh nghiệp lớn vẫn đặt ra nhiều băn khoăn về mức độ cải thiện về quản lý và hoạt động có thể đạt được khi mà sự tham gia của khu vực tư nhân còn rất hạn chế.
Ngoài ra, việc loại bỏ những ưu đãi mà doanh nghiệp nhà nước hiện có, nhất là về đất đai và vốn tín dụng, sẽ giúp cân bằng lợi ích giữa khu vực này với khu vực tư nhân.
Theo ông, Việt Nam có nên tiếp tục nới lỏng chính sách tiền tệ để thúc đẩy tăng trưởng trong năm nay? Nếu có thì tỷ lệ này nên là bao nhiêu?
Ông Sanjay Kalra: Với tỷ lệ lạm phát thấp như hiện nay, các ngân hàng thương mại đã có động thái giảm cơ cấu lãi suất trong hệ thống ngân hàng. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam duy trì chính sách tiền tệ nới lỏng với thanh khoản dồi dào. Kết quả là, lãi suất liên ngân hàng được đưa về mức thấp hơn lãi suất cơ bản trong cả năm 2013 và 2014.
Lạm phát tiếp tục giảm hứa hẹn tạo dư địa cho việc hạ thêm lãi suất, nhưng việc hạ lãi suất chỉ có thể biến thành tăng trưởng tín dụng nếu các vấn đề trong hệ thống ngân hàng được giải quyết.
Giá dầu giảm có tác động như thế nào đến Việt Nam, thưa ông?
Ông Sanjay Kalra: Các chuyên gia kinh tế đều có chung dự báo, Việt Nam sẽ được hưởng lợi từ việc giảm giá dầu, thông qua một số kênh khác nhau.
Thứ nhất, giá dầu giảm góp phần làm tăng thu nhập thực tế và tiêu dùng. Thứ hai, giá dầu giảm sẽ làm giảm chi phí sản xuất, từ đó tăng đầu tư và lợi nhuận của doanh nghiệp. Thứ ba, giá dầu giảm kéo lạm phát đi xuống. Thứ tư, cán cân thương mại có thể được cải thiện.
Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích, thu ngân sách từ dầu thô sẽ giảm. Một số loại thuế đã được tăng lên để bù đắp ảnh hưởng của giá dầu giảm đối với ngân sách.
Việt Nam đang đa dạng hóa thị trường xuất nhập khẩu để tránh phụ thuộc quá nhiều vào một thị trường nhất định. Quan điểm của ông về vấn đề này thế nào? Và ông có lời khuyên nào cho Việt Nam?
Ông Sanjay Kalra: Trong năm 2014, Việt Nam đã hoàn tất việc đàm phán một số hiệp định thương mại tự do (FTA). Bên cạnh đó, Việt Nam đã có cam kết mạnh mẽ đối với Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) và Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP).
Những FTA này và các thỏa thuận thương mại khác sẽ mở ra thêm nhiều cơ hội cho Việt Nam thông qua các dòng chảy hàng hóa xuyên biên giới quốc gia, mở ra thị trường rộng lớn hơn. Các FTA cũng làm gia tăng nguồn cung cho thị trường trong nước, với mức giá rẻ hơn và mang lại lợi ích cho người tiêu dùng.
Bên cạnh đó, những thách thức liên quan tới cạnh tranh thương mại sẽ gia tăng. Để vượt qua được những thách thức này, Việt Nam cần cải thiện thể chế và tăng năng suất, nhằm giảm chi phí lao động và các chi phí khác trong sản xuất, đồng thời tăng mức hấp dẫn của Việt Nam với tư cách là một điểm đến đầu tư và kinh doanh.
Đặc biệt, duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, bao gồm lạm phát ở mức thấp, duy trì ổn định tỷ giá và tăng niềm tin vào tiền đồng sẽ tạo một nền tảng vững chắc với những lợi ích thương mại lớn hơn.
Ông đánh giá thế nào về thực trạng nợ xấu của Việt Nam hiện nay?
Ông Sanjay Kalra: Công ty Quản lý tài sản Việt Nam (VAMC) đã tích cực trong việc mua nợ xấu từ các ngân hàng, nhưng tốc độ cần được đẩy nhanh hơn. Các ngân hàng có một thời hạn dài để trích lập dự phòng đối với các khoản nợ xấu bán cho VAMC, trong khi các rào cản lớn về pháp lý vẫn tồn tại đối với việc thay đổi quyền sở hữu đối với khoản vay và tài sản thế chấp, khiến việc giải quyết nợ xấu gặp khó khăn.
Để đẩy nhanh tiến trình này, VAMC cần có thẩm quyền lớn hơn về xử lý tài sản thế chấp, và các trở ngại pháp lý về xử lý tài sản thế chấp trên thị trường nợ xấu cần phải được khắc phục.
VAMC cũng cần có nguồn lực lớn hơn, cả về tài chính và nhân sự, để xử lý các khoản nợ xấu được đưa ra thị trường. Thị trường mua bán nợ cần phải có người mua và người bán để có thể hoạt động, và có thể cần tới cả sự tham gia từ bên ngoài.
Nguyệt Quế (dịch)
WSJ