Cần làm gì để KTXH năm 2024 về đích?
Nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê Nguyễn Bích Lâm kiến nghị Chính phủ và các địa phương cần thực hiện 6 nhóm giải pháp để thực hiện thành công Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2024.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII xác định mục tiêu phấn đấu đến năm 2030 Việt Nam là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; có thể chế quản lý hiện đại, cạnh tranh, hiệu lực, hiệu quả; kinh tế phát triển năng động, nhanh và bền vững, độc lập, tự chủ trên cơ sở khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo.
Thực hiện mục tiêu quan trọng của Đại hội Đảng lần thứ XIII, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 đã cụ thể hóa mục tiêu này thành các chỉ tiêu kinh tế, xã hội đến năm 2030 cần phải đạt được, chẳng hạn: Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân khoảng 7%/năm; GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành đến năm 2030 đạt khoảng 7.500 USD; Tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo đạt khoảng 30% GDP; Kinh tế số đạt khoảng 30% GDP; Tốc độ tăng năng suất lao động xã hội bình quân đạt trên 6,5%/năm; Tổng đầu tư xã hội bình quân đạt 33%-35% GDP; Nợ công không quá 60% GDP; Đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp vào tăng trưởng đạt 50%; Tỷ lệ đô thị hóa đạt trên 50%….
Để thực hiện thành công mục tiêu của Chiến lược, căn cứ vào quy mô, cơ cấu, tiềm lực, sức cạnh tranh, tính độc lập tự chủ của nền kinh tế; căn cứ vào các động lực tăng trưởng trong từng thời kỳ và kinh nghiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành phát triển kinh tế - xã hội; căn cứ vào bối cảnh kinh tế, chính trị quốc tế và những hạn chế, yếu kém, khó khăn, thách thức, rủi ro của nền kinh tế, hằng năm Chính phủ xây dựng, trình Quốc hội thông qua Nghị quyết về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm với 15 chỉ tiêu chủ yếu của Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội để Chính phủ chỉ đạo thực hiện, bao gồm:
(1). Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP); (2). GDP bình quân đầu người theo đô la Mỹ (USD); (3). Tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP; (4). Tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân; (5). Tốc độ tăng năng suất lao động xã hội bình quân (NSLĐ); (6). Tỷ trọng lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội; (7). Tỷ lệ lao động qua đào tạo, trong đó có bằng, chứng chỉ; (8). Tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị;
(9). Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều giảm; (10). Số bác sĩ trên 10 nghìn dân; (11). Số giường bệnh trên 10 nghìn dân; (12). Tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế trong tổng dân số; (13). Tỷ lệ số xã đạt chuẩn nông thôn mới; (14). Tỷ lệ thu gom và xử lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị bảo đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn; (15). Tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường.
Đôi nét về kết quả thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội hằng năm trong những năm gần đây
Trong những năm gần đây, hoạt động kinh tế, xã hội của nước ta diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới biến động nhanh, phức tạp, khó lường; khó khăn, thách thức nhiều hơn thời cơ, thuận lợi với các yếu tố rủi ro gia tăng trong cả kinh tế, chính trị và xã hội, tác động mạnh trên quy mô toàn cầu; kinh tế thế giới xuất hiện nhiều yếu tố tạo nên những thay đổi mang tính căn bản đến hoạt động kinh tế xã hội, trao đổi thương mại, cạnh tranh toàn cầu.
Cạnh tranh gay gắt giữa hai siêu cường là Mỹ và Trung Quốc về ý thức hệ, về cấu trúc kinh tế, cùng với kinh tế thế giới phân mảng đang đe doạ an ninh kinh tế và an ninh quốc gia của các nước, làm suy giảm và ngăn cản tự do thương mại và chu chuyển dòng vốn quốc tế.
Cùng với đó, xung đột địa chính trị gây nên đứt gãy cục bộ chuỗi cung ứng toàn cầu; nợ công tăng cao; kinh tế thế giới phục hồi chậm và không đều. Lạm phát tại nhiều quốc gia vẫn ở mức cao, giá lương thực và năng lượng dao động mạnh khiến ngân hàng trung ương nhiều quốc gia phải cân nhắc giữa việc tăng lãi suất để kiểm soát lạm phát và tạm dừng để phục hồi kinh tế. Cùng với đó, thế giới phải đối mặt với khủng hoảng đa tầng và biến đổi khí hậu.
Ở trong nước, nền kinh tế đối mặt với nhiều thách thức, gây khó khăn cho việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đã được Quốc hội thông qua. Đặc biệt, hoạt động sản xuất kinh doanh của khu vực doanh nghiệp trong những năm gần đây gặp vô vàn khó khăn khi đơn hàng sụt giảm, tổng cầu trong nước và thế giới phục hồi chậm và yếu. Xu hướng ngày càng gia tăng các vụ việc điều tra phòng vệ thương mại đối với hàng hóa của Việt Nam khiến doanh nghiệp bị động, gặp nhiều bất lợi trong tiếp cận thị trường xuất khẩu.
Cùng với suy giảm đơn hàng, không có thị trường tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp lâm vào tình cảnh cạn kiệt nguồn vốn. Trái phiếu doanh nghiệp đến kỳ đáo hạn, vốn vay ngân hàng đến kỳ phải trả, việc hoàn thuế và dòng tiền về chậm khiến nhiều doanh nghiệp lao đao, sản xuất cầm chừng.
Thêm nữa, doanh nghiệp còn phải đối mặt với những bất cập trong nội tại của nền kinh tế, đó là thể chế, chính sách còn mâu thuẫn, điều kiện kinh doanh còn nhiều rào cản khó vượt. Đặc biệt, sự chậm trễ, kém hiệu quả trong thực thi các chính sách, giải pháp tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ doanh nghiệp do một số bộ, cơ quan trung ương, địa phương và một bộ phận cán bộ, công chức né tránh, đùn đẩy công việc, sợ trách nhiệm, không quyết định công việc thuộc thẩm quyền đã đẩy doanh nghiệp lâm vào tình cảnh ngày càng khó khăn. Tỷ lệ doanh nghiệp rút khỏi thị trường so với doanh nghiệp gia nhập thị trường gia tăng.
Trong bối cảnh khó khăn của tình hình kinh tế thế giới và trong nước, hằng năm Chính phủ luôn đưa ra phương châm hành động, khẩn trương thực hiện Nghị quyết, Kết luận của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị và các Nghị quyết của Quốc hội.
Chính phủ luôn quyết liệt chỉ đạo các cấp, ngành, địa phương tập trung triển khai thực hiện đồng bộ những nhiệm vụ, giải pháp đề ra trên tất cả các lĩnh vực tại Nghị quyết số 01/NQ-CP về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước, với quan điểm, trọng tâm trong chỉ đạo điều hành và các nhóm nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu.
Cùng với Nghị quyết số 01/NQ-CP, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 02/NQ-CP về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Chính phủ khẩn trương xây dựng và ban hành chương trình, kế hoạch, phương án, kịch bản điều hành phù hợp với thực tiễn.
Với sự chỉ đạo điều hành linh hoạt, hiệu quả, kịp thời, có trọng tâm, trọng điểm trong thực hiện chính sách tiền tệ và tài khóa; tăng cường cải cách thể chế. Kết thúc năm, trong số 15 chỉ tiêu kinh tế xã hội đã được thông qua, các chỉ tiêu về xã hội (Chỉ tiêu số 8 đến số 15) và chỉ tiêu Tốc độ tăng chỉ số CPI (Chỉ tiêu số 4) luôn đạt và vượt mục tiêu kế hoạch; giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, lạm phát được kiểm soát, các cân đối lớn của nền kinh tế cơ bản được đảm bảo; quyết liệt triển khai công tác hoàn thiện thể chế, đẩy mạnh cải cách hành chính, thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, tăng cường phòng chống tham nhũng, tiêu cực, củng cố và nâng cao niềm tin của nhân dân.
Chính phủ tập trung chỉ đạo phát triển, hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng chiến lược đồng bộ, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu. Vị thế của Việt Nam được nâng tầm, trở thành trung tâm chính trị - kinh tế - an ninh khu vực; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo đảm quốc phòng, an ninh, ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội.
Các chỉ tiêu không đạt bao gồm: Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước; GDP bình quân đầu người; Tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP; Tốc độ tăng năng suất lao động xã hội; Tỷ trọng lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội. Các chỉ tiêu không đạt phản ánh những vấn đề nội tại của nền kinh tế cần phải xử lý để thúc đẩy tăng trưởng nhanh và bền vững, đưa Việt Nam thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình.
Trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động, phức tạp, khó lường, chưa có tiền lệ, gây khó khăn thách thức trong triển khai thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội hằng năm. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, kịp thời của Trung ương Đảng; sự phối hợp kịp thời, hiệu quả giữa Quốc hội và Chính phủ; sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị; nỗ lực vượt khó, vươn lên của cộng đồng doanh nghiệp và các hộ kinh doanh, trong những năm qua, ổn định vĩ mô luôn được giữ vững, lạm phát được kiểm soát; tăng trưởng kinh tế tuy không đạt được mục tiêu nhưng vẫn thuộc nhóm cao trong khu vực và thế giới.
Năm 2023, xếp hạng tín nhiệm quốc gia dài hạn của Việt Nam được nâng lên mức BB+ với triển vọng "Ổn định". Công tác đối ngoại đạt nhiều thành tựu quan trọng, mang tính lịch sử, tạo thời cơ và thuận lợi mới để phát triển kinh tế xã hội, nâng cao vị thế và uy tín của nước ta trên trường quốc tế.
Nguyên nhân một số chỉ tiêu phát triển kinh tế-xã hội không đạt
Hạn chế về năng lực dự báo, xây dựng mục tiêu kế hoạch
Trong bối cảnh xung đột địa chính trị, tình hình kinh tế thế giới biến động nhanh, phức tạp, khó lường, công tác nắm bắt thông tin, đánh giá tình hình chưa sát, chưa theo kịp diễn biến và thực tế tình hình kinh tế trong và ngoài nước. Đặt mục tiêu kế hoạch của một số chỉ tiêu hằng năm chưa dựa trên năng lực thực tế của nền kinh tế. Bên cạnh đó phản ứng chính sách của một số cơ quan trung ương, địa phương chưa kịp thời, thận trọng quá mức làm gia tăng khó khăn cho doanh nghiệp, hộ sản xuất kinh doanh và nền kinh tế.
Cơ chế, chính sách chưa theo kịp nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội của đất nước
Cơ chế, chính sách, quy định pháp luật còn mâu thuẫn, chồng chéo, xa rời thực tiễn rất khó triển khai thực hiện. Chẳng hạn, quy định giao cho một địa phương làm cơ quan chủ quản thực hiện đầu tư các dự án giao thông đường bộ qua nhiều địa phương, sử dụng ngân sách của địa phương này hỗ trợ cho địa phương khác; giao địa phương làm cơ quan chủ quản, sử dụng vốn ngân sách địa phương đầu tư thực hiện các dự án thuộc thẩm quyền của bộ, cơ quan trung ương trên địa bàn… là không thực tiễn, ít tính khả thi.
Đặc biệt, doanh nghiệp phải đối mặt với nhiều rào cản trong chính sách và thực thi chính sách. Mặc dù đã có những đột phá về cải cách thể chế, hoàn thiện môi trường pháp lý về đầu tư kinh doanh với nhiều kết quả đáng khích lệ, tuy vậy hệ thống pháp luật và thực thi pháp luật vẫn chưa minh bạch, thiếu cụ thể và không ổn định, khả năng tiên liệu thấp dẫn đến rủi ro gia tăng cho các doanh nghiệp.
Báo cáo tình hình phát triển Doanh nhân, Doanh nghiệp và Hiệp hội doanh nghiệp của Việt Nam do Viện Phát triển doanh nghiệp thuộc VCCI phản ánh trong năm 2022, tỷ lệ doanh nghiệp không bao giờ hoặc hiếm khi dự đoán được sự thay đổi trong quy định pháp luật của Trung ương lên tới 70,8%, trước đó năm 2021 là 68,8%. Việc chính quyền địa phương thực thi chính sách, pháp luật của Trung ương cũng đang là vấn đề lớn với nhiều doanh nghiệp.
Năng lực hạn chế, đùn đẩy, sợ trách nhiệm của một bộ phận cán bộ, công chức trong bộ máy quản lý cản trở quá trình phát triển
Trong thời gian qua, có một số bộ, cơ quan trung ương, địa phương và một bộ phận cán bộ, công chức sợ trách nhiệm, không quyết định công việc thuộc thẩm quyền đã gây nhiều khó khăn cho phát triển kinh tế. Trước thực trạng đó, ngày 19/4/2023, Thủ tướng Chính phủ ban hành Công điện số 280/CĐ-TTg nhằm chấn chỉnh những tồn tại, hạn chế, tăng cường trách nhiệm, đẩy mạnh tinh thần dám nói, dám nghĩ, dám làm của một bộ phận cán bộ, công chức tại các bộ, cơ quan trung ương, địa phương; khắc phục tình trạng đùn đẩy, né tránh trách nhiệm trong giải quyết công việc; bảo đảm kỷ luật, kỷ cương hành chính và nâng cao hiệu lực, hiệu quả chỉ đạo, điều hành.
Chưa nhận thức đúng về tầm quan trọng, thiếu các giải pháp đột phá nâng cao năng suất lao động
Nhìn lại giai đoạn 2016-2020, năng suất lao động bình quân hằng năm tăng 6,05%, cao hơn tốc độ tăng NSLĐ bình quân hằng năm 4,53% của giai đoạn 2011-2015, vượt mục tiêu đề ra trong Nghị quyết số 05-NQ/TW, khóa XII là tốc độ tăng NSLĐ bình quân hằng năm giai đoạn 2016-2020 cao hơn 5,5%.
Vào giai đoạn 2021-2025, trong 3 năm 2021-2023, tốc độ tăng NSLĐ đều thấp hơn mục tiêu được Quốc hội thông qua hằng năm. Bình quân 3 năm 2021-2023, NSLĐ tăng 4,3%/năm, thấp hơn 2,5 điểm phần trăm so với mục tiêu kế hoạch kinh tế - xã hội giai đoạn 2021-2025 và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030. Để đạt mục tiêu NSLĐ giai đoạn 2021-2025 tăng 6,5%, thì NSLĐ hai năm 2024-2025 phải tăng 9,8%.
Năng suất lao động của kinh tế nước ta thấp là do: Nguồn nhân lực còn nhiều bất cập, lao động trong khu vực nông nghiệp và khu vực phi chính thức chiếm tỷ trọng cao trong lực lượng lao động của toàn nền kinh tế, chưa đáp ứng yêu cầu nâng cao NSLĐ, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Cơ cấu lao động theo ngành kinh tế chưa hợp lý, tỷ lệ lao động qua đào tạo có văn bằng chứng chỉ ở mức thấp, cơ cấu đào tạo không hợp lý, thiếu lao động có tay nghề cao, cả bên cung và bên cầu chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động hiện đại, linh hoạt, bền vững và hội nhập. Chưa phát huy được vai trò chủ đạo của năng suất lao động nội ngành.
Năng suất lao động của khu vực doanh nghiệp thấp. Ứng dụng công nghệ, kỹ thuật trong sản xuất kinh doanh còn hạn chế, máy móc, thiết bị và quy trình công nghệ còn lạc hậu. Đặc biệt, Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương và toàn bộ hệ thống chính trị chưa nhận thức đúng về tầm quan trọng của NSLĐ, chưa khẩn trương xây dựng và triển khai thực hiện Chiến lược quốc gia trung và dài hạn về nâng cao NSLĐ với các chính sách và giải pháp đột phá.
Chuyển dịch cơ cấu của toàn nền kinh tế và trong nội ngành công nghiệp chế biến chế tạo còn chậm
Ngành công nghiệp chế biến chế tạo (CBCT) đóng vai trò quan trọng, động lực cho phát triển nhanh và bền vững trong thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0. Trong các kỳ đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay, Đảng ta luôn đề cập tới công nghiệp hoá và hiện đại hoá, ưu tiên phát triển ngành công nghiệp CBCT.
Tuy vậy, chúng ta chưa dành sự quan tâm thoả đáng trong đầu tư, triển khai thực hiện ở tầm chiến lược cho ngành công nghiệp CBCT. Hiện nay, ngành công nghiệp CBCT về cơ bản dừng lại ở trình độ lắp ráp - Trình độ thấp nhất trong 4 cấp độ công nghiệp hoá. Chưa có tín hiệu cho thấy khi nào ngành công nghiệp quan trọng này vươn lên trình độ sản xuất với kỹ thuật riêng; cao hơn là trình độ sản xuất với thiết kế riêng và cao nhất là trình độ sản xuất với thương hiệu riêng.
Công nghiệp phụ trợ chưa phát triển, lĩnh vực công nghiệp thuộc khu vực FDI cơ bản là hoạt động lắp ráp, tận dụng lao động giá rẻ, tạo ra giá trị gia tăng nội địa thấp. Giai đoạn vừa qua, quá trình chuyển dịch cơ cấu của toàn nền kinh tế và trong nội ngành công nghiệp CBCT diễn ra chậm là nguyên nhân dẫn tới tỷ trọng công nghiệp CBCT trong GDP của nước ta đạt thấp.
Cùng với bất cập vừa phản ánh ở trên, năm 2023, tổng cầu thế giới suy giảm, tổng cầu trong nước phục hồi chậm là nguyên nhân không đạt mục tiêu Tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP.
Việc phân luồng, đào tạo lao động không theo nhu cầu của thị trường ảnh hưởng tới việc làm bền vững và nâng cao năng suất lao động
Trong bối cảnh kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào kinh tế thế giới, sự phát triển của chuỗi giá trị toàn cầu thúc đẩy hội nhập quốc tế sâu rộng của thị lao động, đòi hỏi lao động Việt Nam phải có kỹ năng nghề và năng lực làm việc trong môi trường quốc tế. Trong bối cảnh đó, Việt Nam phải tuân thủ các tiêu chuẩn chung, bao gồm các tiêu chuẩn về lao động, về quản trị thị trường lao động hiện đại theo chuẩn mực quốc tế.
Hằng năm chúng ta đưa ra chỉ tiêu: "Tỷ lệ lao động qua đào tạo" bao gồm cả lao động tự đào tạo, tự nâng cao tay nghề, mà không có bằng cấp, chứng chỉ liệu có phù hợp không? Thống kê chỉ tiêu này nhằm mục đích gì? mang lại lợi ích gì cho các nhà quản lý? Thiết nghĩ chúng ta chỉ nên đặt mục tiêu và hằng năm đánh giá việc thực hiện mục tiêu bằng chỉ tiêu "Tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp chứng chỉ".
Nhiều năm qua, các địa phương đã quan tâm triển khai thực hiện chương trình đào tạo nghề cho lao động nông thôn và khu vực phi chính thức. Tuy nhiên, việc đào tạo tràn lan, không định hướng, đào tạo cho đủ chỉ tiêu chứ không quan tâm đến chất lượng hay đầu ra cho học viên đã dẫn đến tình trạng lao động vừa thừa, vừa thiếu, tỷ lệ lao động được đào tạo đúng ngành nghề còn thấp. Những bất cập này dẫn đến tình trạng lao động, nhất là lao động ở nông thôn được đào tạo nghề phù hợp, có việc làm còn thấp.
Bên cạnh đó, nhiều lao động trẻ, lao động phổ thông không thiết tha với việc học nghề. Vì vậy, tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp chứng chỉ đạt thấp, không đạt mục tiêu đã được thông qua. Vấn đề lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ thấp; tỷ lệ lao động trong nông nghiệp và khu vực phi chính thức ở mức cao đang đặt ra áp lực lớn để tạo việc làm bền vững và tăng năng suất lao động của nền kinh tế.
Triển vọng thực hiện các chỉ tiêu chủ yếu của Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2024
Ngày 9/11/2023, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 103/2023/QH15 về Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2024, giao Chính phủ, chính quyền địa phương các cấp thực hiện 15 chỉ tiêu chủ yếu của Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
Trong tổng số 15 chỉ tiêu, các chỉ tiêu từ số 8 đến số 15 là những chỉ tiêu về xã hội, môi trường ít chịu tác động từ các yếu tố khách quan của tình hình kinh tế, chính trị thế giới và khu vực.
Bên cạnh đó, Đảng và Chính phủ có Chỉ thị và các giải pháp đồng bộ giảm nghèo bền vững theo hướng đa chiều, bao trùm; hỗ trợ các hộ nghèo, hộ cận nghèo phát triển sản xuất, đa dạng sinh kế. Với bản tính chịu khó, không ngồi chờ trợ cấp của người lao động.
Vì vậy, nếu không có những biến cố bất ngờ, việc thực hiện các chỉ tiêu về xã hội, môi trường trong Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2024 hoàn toàn có tính khả thi, nhiều chỉ tiêu có thể vượt mục tiêu đã được Quốc hội giao.
Triển vọng thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2024
Với kết quả GDP tăng 5,66% của quý I/2024, để tốc độ tăng GDP cả năm 2024 đạt 6,0% trở lên đòi hỏi tốc độ tăng GDP của 3 quý còn lại trong năm phải đạt trên 6,2%, đây là mức tăng không dễ đạt được nếu Chính phủ không có giải pháp kinh tế đột phá, trong thực tế khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản khó có thể tăng cao liên tục trong nhiều năm; vốn đầu tư công thấp hơn năm trước; khu vực dịch vụ tăng chậm lại do các hộ gia đình vẫn khó khăn về tài chính, tổng cầu tiêu dùng trong nước còn yếu; khu vực doanh nghiệp chưa phục hồi hoàn toàn; nếu kinh tế thế giới không phải gánh chịu rủi ro từ chiến tranh và xung đột leo thang, lạm phát không dai dẳng ở mức cao hoặc có nguy cơ bùng phát trở lại, khiến Fed vẫn giữ lãi suất đồng USD ở mức cao.
Bên cạnh đó, trên nền tăng trưởng của quý 3 và quý 4 năm 2023 ở mức cao, các thực thể kinh tế phải rất nỗ lực, có bước đột phá để tăng trưởng GDP của quý 3 và quý 4 năm nay tăng cao. Chu kỳ tăng trưởng quý sau cao hơn quý trước khó lặp lại trong năm 2024.
Mục tiêu kiểm soát lạm phát năm 2024
Bức tranh lạm phát năm 2024 đan xen các yếu tố gia tăng và kiềm chế lạm phát. Các yếu tố gây áp lực gia tăng lạm phát bao gồm: giá nguyên vật liệu dùng cho sản xuất đang ở mức cao; giá điện biến động theo chiều hướng tăng khi gia tăng nhu cầu sử dụng điện cho sản xuất và tiêu dùng; giá gạo tăng theo giá xuất khẩu khi sản lượng lương thực ở một số quốc gia suy giảm do biến đổi khí hậu; giá các mặt hàng chiến lược do Nhà nước quản lý như dịch vụ y tế, giáo dục có thể tăng sau nhiều năm kìm giữ; tác động của tăng lương và giá các mặt hàng tiêu dùng gia tăng theo yếu tố mùa vụ.
Căng thẳng địa chính trị, xung đột Nga-Ukraine leo thang gây nên đứt gãy và rủi do nguồn cung, cùng với việc Tổ chức các nước Xuất khẩu Dầu mỏ và các đối tác tiếp tục cắt giảm sản lượng là những yếu tố khiến các chuyên gia dự báo giá dầu thô có thể tăng lên trên ngưỡng 100 USD/thùng trong vài tháng tới, tạo áp lực không nhỏ tới lạm phát và kìm hãm tăng trưởng kinh tế.
Đồng USD tăng giá, tạo áp lực lên tỷ giá và gia tăng áp lực nhập khẩu lạm phát đối với nền kinh tế phụ thuộc vào nhập khẩu nguyên, nhiên vật liệu cho sản xuất.
Ở chiều ngược lại, các yếu tố kiềm chế lạm phát bao gồm: sự chủ động và nguồn cung dồi dào về lương thực, thực phẩm - nhóm hàng hóa chiếm tỷ trọng lớn trong chi tiêu dùng của người dân; lạm phát toàn cầu hạ nhiệt, tiến dần về mức lạm phát mục tiêu, sẽ giảm áp lực "nhập khẩu" lạm phát; Chính phủ thực hiện mục tiêu giữ vững ổn định vĩ mô, kiểm soát lạm phát, tạo dựng niềm tin cho cộng đồng doanh nghiệp phục hồi và phát triển sản xuất sẽ làm giảm lạm phát kỳ vọng.
Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, hiện nay lãi suất huy động, cho vay của các ngân hàng thương mại và lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước đã hạ thấp, cùng với đó việc đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng sẽ tạo áp lực lạm phát.
Với các yếu tố kiềm chế lạm phát, Chính phủ có kinh nghiệm trong điều hành giá hàng hóa và dịch vụ chiến lược, cùng với tổng cầu tiêu dùng còn thấp, mục tiêu kiểm soát lạm phát năm 2024 từ 4%- 4,5% đã được Quốc hội thông qua hoàn toàn khả thi.
Mục tiêu năng suất lao động năm 2024
Năng suất lao động xã hội bình quân và GDP bình quân đầu người là chỉ tiêu phái sinh, được tính gián tiếp và phụ thuộc khá nhiều vào kết quả đạt được của chỉ tiêu Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước.
Thực tế hiện nay, với quy trình và công nghệ sử dụng trong sản xuất kinh doanh của nền kinh tế còn lạc hậu; Chuyển dịch cơ cấu của toàn nền kinh tế và trong nội ngành công nghiệp chế biến chế tạo còn chậm; Lao động qua đào tạo có văn bằng chứng chỉ, có kỹ năng, tay nghề còn thấp.
Theo ước tính, ngay cả khi tốc độ tăng GDP năm 2024 đạt 6% - 6,5% khi đó chỉ tiêu tốc độ tăng NSLĐ xã hội bình quân năm 2024 vẫn khó đạt mục tiêu kế hoạch đã được Quốc hội thông qua tăng từ 4,8% - 5,3%.
Cần làm gì để thực hiện thành công Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2024?
Để thực hiện thành công toàn diện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2024, đặc biệt là mục tiêu tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước tạo đà thuận lợi phấn đấu đạt mức cao nhất các mục tiêu theo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025, Chính phủ và các địa phương cần thực hiện một số nhóm giải pháp sau:
Một là, đầu tư công là động lực quan trọng, thúc đẩy tăng trưởng trong bối cảnh tổng cầu thế giới và trong nước phục hồi chậm. Các bộ, ngành, địa phương khẩn trương thực hiện nghiêm nội dung chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Công điện số 24/CĐ-TTg ngày 22/3/2024 về việc đẩy nhanh tiến độ phân bổ và giải ngân vốn đầu tư công năm 2024. Đặc biệt, khẩn trương phân bổ chi tiết kế hoạch đầu tư vốn ngân sách nhà nước năm 2024 theo nguyên tắc trọng tâm, trọng điểm, không dàn trải, phù hợp với khả năng thực hiện, tuân thủ các quy định pháp luật về đầu tư công.
Chính phủ cần xây dựng chiến lược, kế hoạch và chương trình đầu tư công phù hợp, đáp ứng đúng và trúng nhu cầu đầu tư của từng ngành, lĩnh vực và địa phương. Tập trung đầu tư vào các dự án lớn, xóa bỏ đầu tư dàn trải, giảm thiểu thời gian thực hiện dự án, khẩn trương đưa các công trình vào sử dụng, nâng cao hiệu quả vốn đầu tư công.
Bên cạnh đó, Chính phủ cần có giải pháp phát huy vai trò, gắn trách nhiệm và xử lý trách nhiệm của người đứng đầu bộ, ngành, cơ quan trung ương và địa phương trong thực hiện giải ngân vốn đầu tư công.
Đặc biệt, cần tập trung xử lý vấn đề giải phóng mặt bằng (GPMB) theo hướng bố trí GPMB thành một dự án độc lập, được thực hiện với các quy định đặc thù, phù hợp với điều kiện thực tế, nhằm nâng cao tính sẵn sàng cho việc triển khai dự án. Các cơ chế và mức bồi thường GPMB phải thỏa đáng, bảo đảm quyền lợi cho người dân khi di dời, tái định cư để có sự đồng thuận khi triển khai.
Để tạo sự đột phá trong thu hút vốn FDI, Chính phủ cần tăng cường năng lực cạnh tranh của môi trường đầu tư, kinh doanh, phát triển cơ sở hạ tầng, tập trung nâng cao năng lực cơ sở hạ tầng giao thông, hạ tầng công nghiệp, công nghệ, thông tin và logistics; hoàn thiện thể chế, môi trường pháp lý rõ ràng, công khai, minh bạch và quy định rõ, đơn giản các thủ tục liên quan tới quyền sử dụng đất; phòng cháy chữa cháy. Cùng với đó, có cơ chế khuyến khích các dự án FDI sử dụng công nghệ thân thiện với môi trường, tự sản xuất và sử dụng năng lượng tái tạo; đào tạo nguồn nhân lực có kỹ năng và tay nghề với mức lương cạnh tranh trong khu vực và thế giới.
Hai là , chiến lược tăng trưởng dựa vào xuất khẩu có vai trò quan trọng trong bối cảnh toàn cầu hóa và định hình lại chuỗi cung ứng. Chính phủ cần khẩn trương hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về xuất, nhập khẩu; thực hiện chính sách tài khóa và tiền tệ hỗ trợ doanh nghiệp gia tăng nguồn cung, tiết giảm chi phí nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt. Đẩy mạnh xúc tiến thương mại, nâng cao vai trò, trách nhiệm và tính hiệu quả của các cơ quan thương vụ Việt Nam tại nước ngoài để phát triển thị trường xuất khẩu. Đa dạng hoá thị trường xuất, nhập khẩu, đặc biệt đối với thị trường nhập khẩu để giảm thiểu tác động của những cú sốc từ các thị trường này.
Chính phủ cần khẩn trương nắm bắt các ngành, lĩnh vực sẽ trở thành xu hướng phát triển của kinh tế thế giới trong thời gian tới, kịp thời sửa đổi và bổ sung Chiến lược tăng trưởng dựa vào xuất khẩu để đưa kinh tế Việt Nam hoà vào dòng chảy, thuộc nhóm tiên phong trên một số lĩnh vực của kinh tế thế giới.
Bộ Công Thương cần tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin thị trường; hỗ trợ doanh nghiệp tận dụng hiệu quả cơ hội và các cam kết từ các Hiệp định thương mại để đẩy mạnh xuất khẩu; đồng thời tăng cường tuyên truyền về quy tắc xuất xứ và cấp Giấy chứng nhận xuất xứ; tập trung xây dựng hình ảnh doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam uy tín.
Các doanh nghiệp xuất khẩu cần khẩn trương, nhanh nhậy nắm bắt tín hiệu thị trường, giữ vững thị trường truyền thống, chủ động tìm kiếm đơn hàng, mở thêm thị trường mới.
Ba là , cùng với chính sách tiền tệ nới lỏng, Chính phủ xem xét tiếp tục thực hiện chính sách tài khoá nghịch chu kỳ hỗ trợ doanh nghiệp như: giãn, hoãn thời hạn nộp một số khoản thuế, phí cho doanh nghiệp; tiếp tục tháo gỡ rào cản về môi trường pháp lý, tạo môi trường sản xuất kinh doanh thông thoáng, tạo niềm tin cho khu vực doanh nghiệp.
Chính phủ cần thực hiện cải cách và hoàn thiện thể chế khơi thông và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực của đất nước. Hoàn thiện đồng bộ môi trường pháp lý để tất cả các loại thị trường đều phát triển và cạnh tranh lành mạnh. Trong đó, đặc biệt quan tâm tới xây dựng và hoàn thiện thể chế thị trường hàng hoá; thị trường nhân tố và thể chế quản trị doanh nghiệp.
Bốn là , ứng dụng công nghệ cao, trí tuệ nhân tạo, phát triển xanh là xu hướng tất yếu, làm thay đổi rất nhanh cấu trúc kinh tế thế giới; cùng với đó, chuỗi cung ứng toàn cầu được sắp xếp lại.
Chính phủ cần nắm bắt thời cơ, kiến tạo động lực mới cho phát triển, khẩn trương xây dựng chiến lược, với các giải pháp toàn diện, đồng bộ, kế hoạch và lộ trình thực hiện chi tiết, cụ thể để tạo dựng và phát triển một số ngành, lĩnh vực sẽ đóng vai trò động lực tăng trưởng mới của nền kinh tế như: lĩnh vực công nghệ cao, chíp bán dẫn, trí tuệ nhân tạo; kinh tế tuần hoàn; năng lượng tái tạo.
Chính phủ cần xác định cụ thể phải làm gì; tập trung đầu tư, phát triển ngành nào trong lĩnh vực công nghệ cao; có giải pháp phù hợp và thực thi hiệu quả để kinh tế nước ta vươn lên, trở thành cường quốc trong xuất khẩu công nghệ cao.
Năm là , để kiểm soát lạm phát theo mục tiêu, Chính phủ và các địa phương cần có giải pháp đảm bảo đầy đủ nguồn cung với giá ổn định đối với nhóm hàng lương thực, thực phẩm. Có giải pháp đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, bảo đảm cung ứng đầy đủ xăng dầu đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế. Dự báo, xây dựng kế hoạch, giải pháp cung ứng đủ điện cho sản xuất và tiêu dùng trong bất kỳ hoàn cảnh nào.
Đặc biệt, Chính phủ cần thực hiện chính sách tài khoá và tiền tệ linh hoạt, phù hợp, giữ ổn định vĩ mô. Ngân hàng Nhà nước cần kiên định thực hiện chính sách tín dụng và lãi suất phù hợp, hài hoà với nhu cầu. Từ đó, đảm bảo lợi ích của các thực thể có liên quan trong nền kinh tế, giữ giá trị VND, giảm áp lực lạm phát tiền tệ đối với nền kinh tế; điều chỉnh tỷ giá linh hoạt nhằm ổn định giá nguyên vật liệu nhập khẩu, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm sản xuất trong nước.
Đồng thời, đánh giá tác động của việc tăng giá dịch vụ y tế, giáo dục đối với lạm phát và tăng trưởng kinh tế để quyết định mức độ, thời điểm điều chỉnh giá các loại dịch vụ do Nhà nước quản lý, đáp ứng mục tiêu kiểm soát lạm phát, giảm tác động tiêu cực đến mức sống của người dân.
Sáu là , Chính phủ cần khẩn trương xây dựng và triển khai thực hiện Chiến lược quốc gia về nâng cao năng suất lao động. Định kỳ đánh giá, bổ sung, cập nhật Chiến lược phù hợp với những thay đổi mau lẹ của kinh tế thế giới.
Trong xu hướng toàn cầu hoá kinh tế thế giới đòi hỏi công nghiệp CBCT nước ta phải gắn kết vào chuỗi cung ứng và chuỗi giá trị toàn cầu với chất lượng và hiệu quả cao hơn. Chính phủ cần đánh giá kết quả thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế trong những năm qua, xác định nguyên nhân, bất cập làm chậm quá trình này, từ đó có giải pháp phù hợp đẩy nhanh tiến trình cơ cấu lại nền kinh tế, gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng của nền kinh tế, đặc biệt đối với ngành công nghiệp CBCT là đòi hỏi khách quan, cấp bách, có tính mệnh lệnh để tạo dựng và phát triển các ngành công nghiệp mới, nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của các ngành hiện có, thúc đẩy phát triển công nghiệp phụ trợ, giảm phụ thuộc vào nhập khẩu tư liệu sản xuất.
Cơ cấu lại nền kinh tế phải phù hợp với xu hướng thay đổi của kinh tế thế giới. Cơ cấu lại từng ngành theo hướng phát huy lợi thế so sánh và tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Tập trung nội lực, thúc đẩy động lực phát triển những sản phẩm có lợi thế so sánh, sức cạnh tranh và giá trị gia tăng cao. Cùng với đó, cơ cấu lại lĩnh vực đầu tư công, ngân sách nhà nước, hệ thống các tổ chức tín dụng.
Ngay từ đầu năm, Chính phủ yêu cầu các cấp, các ngành, các địa phương quyết tâm khắc phục mọi khó khăn, vượt qua mọi thách thức, giữ vững tinh thần vượt khó, đoàn kết, tự lực, tự cường, chủ động thích ứng, linh hoạt, hành động quyết liệt, khoa học, hiệu quả, tích cực đổi mới, sáng tạo theo phương châm: "Kỷ cương trách nhiệm; chủ động kịp thời; tăng tốc sáng tạo; hiệu quả bền vững ."
Với năng lực và kinh nghiệm trong điều hành của Chính phủ cùng sự đồng hành kịp thời, hiệu quả của Quốc hội; với tinh thần chủ động, linh hoạt, sáng tạo, đương đầu với khó khăn, thách thức của cộng đồng doanh nghiệp, kinh tế Việt Nam sẽ hoá giải được những khó khăn, bất cập, để đạt được tối đa các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm 2024 đã được Quốc hội thông qua./.
Báo Chính phủ