Cơ chế thuế tiêu thụ đặc biệt nào phù hợp để tăng thu ngân sách nhà nước?
Theo báo cáo của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM), trong vòng 15 năm qua, rượu, bia đã chịu tác động của 5 lần thay đổi Thuế TTĐB, từ mức 50% (năm 2015) lên 55% (năm 2016) và sau đó lên 65% (năm 2018).
- 25-07-2023Thủ tướng kiểm tra dự án đường vành đai 3 TP.HCM qua Long An
- 25-07-2023Kế hoạch thực hiện Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam
- 25-07-2023TP HCM bổ sung nhiều tuyến đường sắt, đường trên cao vào quy hoạch
Tuy nhiên, đánh giá một cách khách quan, sau nhiều lần thay đổi nhưng các mục tiêu đặt ra đều chưa đạt được như kỳ vọng. Chính vì vậy, một số chuyên gia đề xuất áp dụng phương pháp tính thuế hỗn hợp dựa trên lít cồn nguyên chất thay cho phương pháp thuế tương đối đang áp dụng hiện nay.
Có nên đánh đồng thuế tiêu thụ đặc biệt đối với cả 2 mặt hàng rượu, bia?
Xét về tác hại của đồ uống có cồn, sản phẩm bia, với nồng độ cồn từ 4% đến 6% rõ ràng có ít tác hại hơn nhiều so với sản phẩm rượu với nồng độ cồn từ 15% đến 40%, đặc biệt có loại lên đến 50%.
Chính sách thuế TTĐB hiện nay quy định bia chịu mức thuế suất thuế TTĐB 65% ngang bằng với thuế suất áp dụng cho rượu với nồng độ cồn trên 20% và cao hơn rượu có nồng độ cồn thấp hơn 20% (35%) chưa phải là chính sách phù hợp với mục tiêu giảm tác hại của việc tiêu thụ đồ uống có cồn như khuyến nghị của WHO và chủ trương của nhà nước.
Thực tiễn tại Việt Nam, các sản phẩm bia có nồng độ cồn tương tự nhau, từ 4% đến 5.3% và có giá bán chênh lệch không nhiều, từ 5-6.000 đồng/ lon đến ~ 25.000/ lon. Đồng thời, bia nhập khẩu chiếm tỷ trọng rất thấp (0,005%), khó gia tăng thị phần và không có sản phẩm nhập lậu. Do đó, việc xây dựng chính sách thuế cho sản phẩm bia tương đối dễ dàng so với các sản phẩm rượu.
Ngược lại, ngành rượu có rất nhiều sản phẩm khác nhau như rượu vang, rượu whisky, rượu gạo, v.v.. với nồng độ cồn và giá bán chênh lệch lớn. Rượu nhập khẩu chính ngạch, rượu sản xuất công nghiệp chiếm khoảng 30% thị phần, trong khi tỷ lệ rượu nhập lậu, rượu giả, rượu nấu thủ công vẫn còn ở mức cao, xấp xỉ 60% theo số liệu của Tổng Cục Quản lý thị trường - Bộ Công Thương, thực tế này làm thất thu ngân sách nhà nước, ảnh hưởng đến doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh chân chính và gây hại sức khỏe người tiêu dùng. Về vấn đề này, các chuyên gia phân tích, nếu nhà nước cứ tăng tiền thuế đối với những doanh nghiệp làm ăn chân chính thì họ càng bị kiệt sức. “Nếu tăng thuế tức sản phẩm phải tăng giá, song song với việc này người tiêu dùng lại chọn mua sản phẩm giá rẻ trên thị trường” - TS Nguyễn Ngọc Tú - Giảng viên Đại học Kinh doanh và Công nghệ, nhận định. Cùng quan điểm, chuyên gia kinh tế TS Lê Đăng Doanh cho rằng, cần tăng cường hiệu quả quản lý đối với khu vực đồ uống có cồn phi chính thức và kết hợp nhiều giải pháp chính sách khác ngoài thuế để hạn chế lạm dụng đồ uống có cồn một cách hiệu quả. Vì vậy, cần có cơ chế thuế tiêu thụ đặc biệt và các cơ chế quản lý thị trường riêng cho sản phẩm bia và rượu .
Hệ thống thuế tương đối hiện đang áp dụng tạo ra sự không công bằng về chi phí thuế giữa các sản phẩm
Tại thị trường Việt Nam hiện nay, các sản phẩm bia có nồng độ cồn dao động trong khoảng từ 4 đến 5.3 %, trong đó các sản phẩm có nồng độ cồn từ 4.3 độ đến 4.7 độ chiếm trên 80% sản lượng tiêu thụ
So sánh giữa giá sản phẩm và độ cồn trong sản phẩm rất khác biệt nhau. Ví dụ: 01 lon bia độ cồn 4,7% và giá bán trung bình 9.812 đồng, 01 lon bia độ cồn 5,3% và giá bán trung bình 11.181 đồng và 01 lon bia độ cồn 4,0% và giá bán trung bình 19.517 đồng. Như vậy, xét trên khía cạnh ảnh hưởng đến sức khỏe người tiêu dùng do lượng cồn tiêu thụ, các sản phẩm này có mức ảnh hưởng khác nhau (độ cồn càng cao thì tác động sức khỏe tiêu dùng càng lớn), thế nhưng mô hình thuế tương đối (tính theo giá trị) như hiện nay tạo ra sự không công bằng cho các sản phẩm bia có nồng độ cồn khác nhau, ngay cả sản phẩm bia có đồ cồn thấp hơn lại phải chịu thuế nhiều hơn bia có độ cồn cao hơn.
Hơn nữa, thực tế cho thấy để tạo ra những sản phẩm giá trị chất lượng cao, thì nhà sản xuất phải đầu tư chi phí cao (ví dụ như sử dụng nguyên vật liệu đầu vào có giá trị cao hơn, đầu tư dây chuyền sản xuất hiện đại hơn, v.v..) , thậm chí có độ cồn thấp và ít tác hại hơn nhưng lại phải chịu mức thuế TTĐB cao hơn.
Phương pháp tính thuế hỗn hợp giúp tăng ngân sách nhà nước
Chính sách thuế tiêu thụ đặc biệt với đồ uống, bên cạnh mục tiêu hạn chế lạm dụng đồ uống có cồn, còn có mục tiêu góp phần tăng thu cho ngân sách và bảo đảm môi trường kinh doanh thuận lợi, nuôi dưỡng nguồn thu. Những mục tiêu này khá tương đồng với các nước khác, song hiện nay ở Việt Nam mới chỉ áp dụng phương pháp tính thuế tương đối. Phương pháp này có mặt hạn chế trong việc giúp cho đạt được những mục tiêu đề ra, đặc biệt là về tăng thu ngân sách Nhà nước như Bộ Tài chính hướng tới.
Cụ thể như đối với mục tiêu tăng thu ngân sách, phương pháp đánh thuế tương đối tức là đánh thuế dựa vào giá buôn của sản phẩm. Vì vậy, nguồn thu ngân sách biến động nhiều hơn do sự biến động chi phí nguyên vật liệu đầu vào, tình hình kinh tế - xã hội vĩ mô.
Chính sách thuế hiện nay cũng chưa bảo đảm môi trường cạnh tranh thuận lợi, nuôi dưỡng nguồn thu. Thuế suất đối với khu vực chính thức thì gia tăng trong khi đó hơn 63% khối lượng cồn nguyên chất được tiêu thụ ở khu vực phi chính thức. Do không phải chịu kiểm soát và chi phí về thuế, chất lượng, bao bì, tem nhãn và tiêu thụ nên giá thành rượu, bia phi chính thức rẻ hơn. Điều này nguy hiểm cho sức khỏe người tiêu dùng, gây thiệt hại cho khu vực đồ uống có cồn chính thức và làm thất thu ngân sách.
Theo TS. Đặng Thị Thu Hoài, Trưởng ban Ban Nghiên cứu kinh tế ngành và lĩnh vực (CIEM), mô hình thuế hỗn hợp sẽ giúp Nhà nước đạt được tốt hơn các mục tiêu chính sách với mặt hàng này.
Nhóm nghiên cứu CIEM khuyến nghị xem xét áp dụng phương pháp thuế hỗn hợp, tức là giữ nguyên mức thuế tương đối như hiện nay và áp thêm thuế tuyệt đối trên từng lít cồn nguyên chất đối với từng nhóm sản phẩm đồ uống có cồn, thay cho thuế tương đối hiện nay.
Nhóm nghiên cứu đã thực hiện kiểm chứng hiệu quả của thuế hỗn hợp thông qua các tính toán định lượng dựa trên mô hình thuế của Đại học Charles Sturt (Australia), nguồn số liệu của Tổng cục Thống kê và Tổ chức Nghiên cứu Rượu Quốc tế (IWSR). Khi áp dụng phương pháp thuế hỗn hợp sẽ khiến giá sản phẩm rượu ở phân khúc cao cấp rẻ hơn tương đối so với chính nó nếu áp thuế tương đối. Như vậy, người tiêu dùng sẽ chuyển sang sử dụng nhóm sản phẩm đồ uống có cồn với chất lượng tốt hơn, hạn chế việc sử dụng các sản phẩm rẻ tiền, không rõ nguồn gốc, không bảo đảm chất lượng an toàn thực phẩm… và do đó tăng thêm nguồn thu ngân sách từ khu vực đồ uống có cồn chính thức. Kết quả ước lượng cho thấy, thuế hỗn hợp giúp tăng thu ngân sách khoảng 25% so với thuế tương đối.
Trong tương lai, theo nhận định của các chuyên gia, xu hướng tiêu dùng tại Việt Nam sẽ dần chuyển sang ưa chuộng các sản phẩm có độ cồn thấp hơn, tương tự như trào lưu trên thế giới. Đây là cơ hội để cơ quan quản lý điều chỉnh chính sách, hướng tới phân khúc sản phẩm này, nhằm giảm mức tiêu thụ nồng độ cồn nguyên chất cho người tiêu dùng và duy trì hoặc tăng tổng sản lượng, từ đó ổn định nguồn thu.
Tiền Phong