Cố giáo sư Trần Văn Khê và câu chuyện 100% người Việt nên đọc để thấy tinh thần dân tộc chảy trong huyết quản!
Có một câu chuyện mang rất nhiều cảm hứng đã được Giáo sư kể đi kể lại cho các học trò. Câu chuyện ấy cũng được ông ghi lại trong cuốn hồi ký, kể về cuộc tranh luận bên lề buổi sinh hoạt của Hội Truyền bá Tanka Nhật Bản tại Paris vào năm 1964.
- 02-10-2016Từ gánh nặng nghèo đói phải bỏ học đi bán hàng dạo, tỷ phú Lý Gia Thành đã gây dựng cơ đồ thế nào?
- 02-10-20164 sự thay đổi tư duy mang lại thành công vang dội: Điều không bao giờ có ở những người yếu kém
Cố Giáo sư Trần Văn Khê là một nhà nghiên cứu văn hóa, âm nhạc cổ truyền nổi tiếng ở Việt Nam. Ông là người Việt Nam đầu tiên đậu tiến sĩ ngành âm nhạc học tại Pháp và từng là Giáo sư tại Đại học Sorbonne (Pháp), thành viên danh dự Hội đồng Âm nhạc Quốc tế, UNESCO. Ông là người có bề dày trong hoạt động nghiên cứu, giảng dạy, có công trong quảng bá âm nhạc Việt Nam.
Cố Giáo sư Trần Văn Khê từng hiến tặng cho TP HCM 420 kiện hiện vật quý, trong đó có nhiều loại nhạc cụ dân tộc và tài liệu âm nhạc, văn hóa Việt Nam nói chung ra thế giới.
Rạng sáng 24/6/2015, sau gần 1 tháng chữa trị tại Bệnh viện Nhân dân Gia Định (TP HCM), ông trút hơi thở cuối cùng, hưởng thọ 94 tuổi. Dẫu vậy, những câu chuyện, bài học về sự tài hoa, đặc biệt là tình yêu quê hương, đất nước của ông vẫn được truyền lại và mang tới bài học ý nghĩa cho thế hệ mai sau.
Trong bài đăng trên CAND Xuân 2016, tác giả Minh Trần có viết:
Vì hoàn cảnh đất nước, Giáo sư Trần Văn Khê phải sống ở nước ngoài đến hơn nửa đời người. Vậy nhưng 57 năm bôn ba ở nơi đất khách, chưa một lúc nào Giáo sư quên mình là một người Việt Nam. Chất giọng của ông vẫn mang những nét đặc trưng Nam bộ, không hề pha tạp. Và ông chỉ dùng tiếng nước ngoài khi nào buộc phải giao tiếp với người nước ngoài. Còn lại, ông luôn say mê, vui vẻ sử dụng tiếng Việt.
Giáo sư Trần Văn Khê luôn ngạc nhiên vì sao lớp trẻ cứ phải dùng tiếng Tây, tiếng Anh trong giao tiếp. Ông không hiểu vì sao các bạn trẻ lại nói "Tôi sắp đi France" thay vì "Tôi sắp đi Pháp", hay nói "Con đến để say hello thầy rồi con đi business vài ngày" thay vì "Con đến để chào thầy rồi con đi công tác vài ngày". Ông viết thư cho con cháu trong gia đình bằng tiếng Việt, ông luôn nghĩ về nguồn cội bằng việc làm thơ, viết báo bằng tiếng Việt. Và ông trước sau vẫn chỉ dùng duy nhất một cái tên Trần Văn Khê do cha mẹ đặt cho.
Cố Giáo sư Trần Văn Khê.
Có một câu chuyện mang rất nhiều cảm hứng đã được Giáo sư kể đi kể lại cho các học trò. Câu chuyện ấy cũng được ông ghi lại trong cuốn hồi ký, kể về cuộc tranh luận bên lề buổi sinh hoạt của Hội Truyền bá Tanka Nhật Bản tại Paris vào năm 1964. Tham dự hầu hết là người Nhật và Pháp, duy chỉ có Giáo sư là người Việt. Diễn giả của buổi sinh hoạt ấy là một cựu Đề đốc Thủy sư người Pháp.
Vị này khởi đầu buổi nói chuyện với sự so sánh: "Thưa quý vị, tôi là Thủy sư đề đốc, đã sống ở Việt Nam 20 năm mà không thấy một áng văn nào đáng kể. Nhưng khi sang nước Nhật, chỉ trong vòng một, hai năm mà tôi đã thấy cả một rừng văn học. Và trong khu rừng ấy, trong đó Tanka là một đóa hoa tuyệt đẹp. Trong thơ Tanka, chỉ cần nói một ngọn núi, một con sông mà tả được bao nhiêu tình cảm. Chỉ 31 âm tiết mà nói bao nhiêu chuyện sâu sắc, đậm đà. Nội hai điều đó thôi đã thấy các nước khác không dễ có được".
Giáo sư Trần Văn Khê vô cùng bức xúc. Sau khi buổi nói chuyện bước vào phần giao lưu, cử tọa hỏi còn ai đặt câu hỏi nữa hay không, Giáo sư đã đứng dậy xin phép phát biểu. Rào trước đón sau để không bị ai bắt bẻ, Giáo sư nói với một thái độ hết sức khiêm cung: "Tôi không phải là người nghiên cứu văn học, tôi là Giáo sư nghiên cứu âm nhạc, là thành viên hội đồng quốc tế âm nhạc của UNESCO.
Trong lời mở đầu phần nói chuyện, ông Thủy sư Đề đốc nói rằng đã ở Việt Nam hai mươi năm mà không thấy áng văn nào đáng kể. Tôi là người Việt, khi nghe câu đó tôi đã rất ngạc nhiên. Thưa ngài, chẳng biết khi ngài qua nước Việt, ngài chơi với ai mà chẳng biết một áng văn nào của Việt Nam? Có lẽ ngài chỉ chơi với những người quan tâm đến chuyện ăn uống, chơi bời, hút sách... thì làm sao biết được đến văn chương?
Phải chi ngài chơi với Giáo sư Emile Gaspardone thì ngài sẽ biết đến một thư mục gồm trên 1.500 sách báo về văn chương Việt Nam, in trên Tạp chí Viễn Đông bác cổ của Pháp số 1 năm 1934. Hay nếu ngài gặp ông Maurice Durand thì ngài sẽ có dịp đọc qua hàng ngàn câu ca dao Việt Nam mà ông Durand đã cất công sưu tập... Ông còn hiểu biết về nghệ thuật chầu văn, ông còn xuất bản sách ghi lại các sinh hoạt văn hóa của người Việt Nam. Nếu ngài làm bạn với những người như thế, ngài sẽ biết rằng nước tôi không chỉ có một, mà có đến hàng ngàn áng văn kiệt tác.
Tôi không biết ngài đối xử với người Việt Nam thế nào, nhưng người nước tôi thường rất hiếu khách, sẵn sàng nói cái hay trong văn hóa của mình cho người khác nghe. Nhưng người Việt chúng tôi cũng "chọn mặt gửi vàng", với những người phách lối có khi chúng tôi không tiếp chuyện. Việc ngài không biết về áng văn nào của Việt Nam cho thấy ngài giao du với những người Pháp như thế nào, ngài đối xử với người Việt ra sao. Tôi rất tiếc vì điều đó. Vậy mà ông còn dùng đại ngôn trong lời mở đầu".
Rồi để so sánh với Tanka, Giáo sư đưa ra những câu thơ: "Núi cao chi lắm núi ơi/ Núi che mặt trời, không thấy người yêu" hay "Đêm qua mận mới hỏi đào/ Vườn hồng đã có ai vào hay chưa" để đối chiếu: tức là cũng dùng núi non, hoa lá để nói thay tâm sự của mình.
Còn về âm tiết, Giáo sư kể lại câu chuyện về Mạc Đĩnh Chi thời nhà Trần đi sứ sang nhà Nguyên (Trung Quốc). Lúc ấy bà hậu phi của vua Nguyên vừa mất, họ muốn thử tài sứ giả nên mời ông làm một bài điếu văn, đề bài là phải có bốn chữ "nhất". Đại sứ không hốt hoảng mà ứng tác liền:
"Thanh thiên nhất đóa văn
Hồng lô nhất điểm tuyết
Thượng uyển nhất chi hoa
Dao trì nhất phiến nguyệt
Y! Vân tán, tuyết tiêu, hoa tàn, nguyệt khuyết!
(Nghĩa là:
Một đám mây giữa trời xanh
Một bông tuyết trong lò lửa
Một bông hoa giữa vườn thượng uyển
Một vầng trăng trên mặt nước ao
Than ôi! Mây tản, tuyết tan, hoa tàn, trăng khuyết!)
- Tất cả chỉ 29 âm chứ không phải 31 âm để nói việc người vừa mất đẹp và cao quý như thế nào).
Khi Giáo sư Trần Văn Khê dịch và giải nghĩa những câu thơ này thì khán giả vỗ tay nhiệt liệt. Đã vậy, Giáo sư còn thêm một câu: "Tất cả những điều trên tôi biết được là nhờ học ở trường trung học" để cho thấy văn học Việt Nam "thâm hậu" như thế nào.
Ông Thủy sư Đề đốc đỏ mặt và phải xin lỗi Giáo sư Trần Văn Khê lẫn người Việt Nam ngay trong chương trình. Kết thúc buổi nói chuyện, ông Thủy sư lại đến gặp riêng Giáo sư và ngỏ ý mời ông đến nhà dùng cơm để được nghe nhiều hơn về văn hóa Việt Nam. Giáo sư tế nhị từ chối, còn nói người Việt không mạo muội đến dùng cơm ở nhà người lạ.
Vị Thủy sư Đề đốc nói: "Vậy là ông chưa tha thứ cho tôi". Giáo sư lại nói: "Có một câu mà tôi không thể dùng tiếng Pháp mà phải dùng tiếng Anh. Đó là: I forgive, but I cannot yet forget - Tạm dịch: Tôi tha thứ, nhưng tôi chưa thể quên.