MỚI NHẤT!

Đọc nhanh >>

Cơ hội kinh tế của Việt Nam

Có những cơ hội kinh tế đang dần trôi qua. Hoa lại nở khi mùa xuân về, nhưng cơ hội kinh tế sẽ ít khi vận hành lặp lại như vậy. Vấn đề là chúng ta cần tìm kiếm cơ hội kinh tế mới để tiếp tục phát triển và thịnh vượng.

(BKTO) - Có những cơ hội kinh tế đang dần trôi qua. Hoa lại nở khi mùa xuân về, nhưng cơ hội kinh tế sẽ ít khi vận hành lặp lại như vậy. Vấn đề là chúng ta cần tìm kiếm cơ hội kinh tế mới để tiếp tục phát triển và thịnh vượng.

Cơ hội kinh tế của Việt Nam - Ảnh 1.

Cần tìm kiếm cơ hội kinh tế mới để tiếp tục phát triển và thịnh vượng. Ảnh: ST

Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, tính đến hết tháng 11/2023, cả nước có hơn 280.000 lao động bị ảnh hưởng việc làm, trong đó có hơn 70.000 người bị sa thải. Ngành dệt may là ngành bị ảnh hưởng nặng nề nhất, với hơn 142.500 lao động bị ảnh hưởng việc làm và hơn 31.600 người bị sa thải. Vài ví dụ cụ thể, Công ty TNHH Dệt may Huế đã sa thải hơn 3.000 lao động, chiếm khoảng 70% tổng số lao động của Công ty; Công ty TNHH May mặc Xuất khẩu Bình Dương đã sa thải hơn 1.000 lao động, chiếm khoảng 20% tổng số lao động của Công ty.

Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là do sự cạnh tranh gay gắt từ các nước sản xuất dệt may khác, tác động của đại dịch Covid-19, của sự suy giảm của kinh tế thế giới và của quá trình tự động hóa mạnh mẽ nhờ công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI). Những ngành nghề thâm dụng lao động như: Dệt may, da dày, gia công lắp ráp… một thời đã tạo ra công ăn việc làm và giúp cải thiện đời sống cho hàng triệu người, sắp tới sẽ ít còn khả năng làm điều đó nữa. Quả thật, có những cơ hội kinh tế đang dần trôi qua. Hoa lại nở khi mùa xuân về, nhưng cơ hội kinh tế sẽ ít khi vận hành lặp lại như vậy. Vấn đề là chúng ta cần tìm kiếm cơ hội kinh tế mới để tiếp tục phát triển và thịnh vượng.

Vậy cơ hội kinh tế của đất nước ta trong bối cảnh hiện nay là gì? Phải chăng dưới đây là một số cơ hội như vậy?

Trước hết, cho dù kinh tế thế giới có suy giảm đến đâu, thì có những thứ cầu sẽ luôn luôn không giảm. Đó là cầu về lương thực, thực phẩm. Xu hướng tăng giá lương thực trên thị trường thế giới đã diễn ra trong những năm gần đây quả thực là một cơ hội. Theo Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc (FAO), chỉ số giá lương thực thế giới đã tăng 14,3% trong năm 2022, là mức cao nhất kể từ năm 1990. Giá lương thực dự kiến sẽ tiếp tục tăng trong năm 2023. FAO dự báo chỉ số giá lương thực thế giới sẽ tăng 2,5% trong năm nay. Trong năm 2024, dự kiến giá lương thực vẫn sẽ tăng, mặc dù với tốc độ chậm hơn so với năm 2023. FAO nhận định, chỉ số giá lương thực thế giới có thể tăng 2,4% trong năm 2024. Là một trong những quốc gia xuất khẩu lương thực hàng đầu, đây là một cơ hội kinh tế lớn cho Việt Nam. Chúng ta cần phân bổ các nguồn lực hợp lý, trong đó có nhân lực để tận dụng cơ hội này.

Thứ hai, với mối quan hệ tốt cả với Hoa Kỳ và với Trung Quốc, Việt Nam có thể tận dụng cơ hội từ cả hai thị trường lớn này.

Hoa Kỳ là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam. Theo số liệu của Bộ Công Thương, thặng dư thương mại của Việt Nam với Hoa Kỳ trong năm 2022 đạt 116,04 tỷ USD, tăng 25,2% so với năm 2021. Đây là mức thặng dư thương mại cao nhất của Việt Nam với Hoa Kỳ kể từ khi hai nước ký kết Hiệp định Thương mại song phương (BTA) vào năm 2000. Kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Hoa Kỳ trong năm 2022 đạt 138,54 tỷ USD, tăng 22,4% so với năm 2021. Trong đó, xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ đạt 127,52 tỷ USD, tăng 25,2%; nhập khẩu của Việt Nam từ Hoa Kỳ đạt 11,4 tỷ USD, tăng 19,6%. Để khai thác bền vững thị trường Hoa Kỳ, chúng ta cần đẩy mạnh thu hút đầu tư FDI từ Hoa Kỳ. Chúng ta cần tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp Hoa Kỳ đầu tư vào Việt Nam. Việc thu hút được nhiều dự án FDI từ Hoa Kỳ sẽ giúp Việt Nam mở rộng thị trường xuất khẩu, đặc biệt là các mặt hàng trung và cao cấp. Ngoài ra, chúng ta cũng cần đẩy mạnh hợp tác thương mại song phương, đặc biệt là trong các lĩnh vực mới nổi như: Kinh tế số, thương mại điện tử... Hợp tác thương mại song phương sẽ giúp hai nước tận dụng tốt lợi thế của nhau, thúc đẩy tăng trưởng thương mại giữa hai nước.

Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam. Theo số liệu của Bộ Công Thương, kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Trung Quốc trong năm 2022 đạt 196,5 tỷ USD, tăng 14,5% so với năm 2021. Trong đó, xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc đạt 66,7 tỷ USD, tăng 13,8%; nhập khẩu của Việt Nam từ Trung Quốc đạt 129,8 tỷ USD, tăng 15,1%. Cũng như đối với Hoa Kỳ, chúng ta cần đẩy mạnh thu hút đầu tư FDI từ Trung Quốc; đẩy mạnh hợp tác thương mại song phương. Ngoài ra, chúng ta cũng cần nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa, để có thể tham gia sâu hơn vào thị trường Trung Quốc. Điều này có thể được thực hiện thông qua việc đào tạo, hỗ trợ tiếp cận thị trường, vốn vay ưu đãi...

Thứ ba, ưu thế do các hiệp định thương mại tự do (FTA) mang lại. Theo số liệu của Bộ Công Thương, tính đến tháng 8/2023, Việt Nam đã ký kết 18 FTA, trong đó có 14 FTA đã có hiệu lực. Trong số 18 FTA này, có 10 FTA song phương, 7 FTA đa phương và 1 FTA khu vực. Việt Nam là nước ASEAN có số lượng FTA ký kết nhiều nhất, vượt qua các nước như: Singapore, Thái Lan và Indonesia. Các FTA sẽ giúp Việt Nam:

1. Mở rộng thị trường xuất khẩu. Các FTA cắt giảm hoặc xóa bỏ thuế quan và các rào cản thương mại khác đối với hàng hóa và dịch vụ giữa các nước ký kết. Điều này giúp doanh nghiệp Việt Nam dễ dàng tiếp cận các thị trường mới, tăng cường xuất khẩu và tạo ra thêm nhiều việc làm.

2. Thu hút đầu tư nước ngoài. FTA tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài, thúc đẩy đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam. FDI mang lại nhiều lợi ích cho Việt Nam, bao gồm: Chuyển giao công nghệ, tạo việc làm và nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.

3. Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Các FTA giúp doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận với các công nghệ, tiêu chuẩn và quy trình sản xuất mới, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của mình.

Thứ tư, ưu thế của nguồn đất hiếm có trữ lượng lớn. Việt Nam là quốc gia có trữ lượng đất hiếm lớn thứ hai thế giới, với tổng trữ lượng ước tính khoảng 22 triệu tấn. Đây là một nguồn tài nguyên quý giá, có thể được sử dụng trong nhiều lĩnh vực quan trọng như: Công nghiệp điện tử, sản xuất ô tô, năng lượng tái tạo...

Việc khai thác và chế biến đất hiếm có thể mang lại nhiều cơ hội phát triển kinh tế - xã hội cho Việt Nam, như: Tạo ra nguồn thu nhập lớn cho ngân sách nhà nước; cung cấp nhiều việc làm; thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu kinh tế; nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

Bốn cơ hội kinh tế nói trên là rất rõ ràng. Vấn đề còn lại là năng lực hiện thực hóa chúng./.

Theo TS. NGUYỄN SĨ DŨNG - NGUYÊN PHÓ CHỦ NHIỆM VĂN PHÒNG QUỐC HỘI

Báo kiểm toán

CÙNG CHUYÊN MỤC

XEM
Trở lên trên