Đầu tư vào fintech bùng nổ: Cứ 5 USD vốn mạo hiểm thì có 1 USD được rót vào đây, các định chế truyền thống ráo riết tìm cơ hội đầu tư
Các công ty ồ ạt lên kế hoạch mở rộng và công cuộc tìm kiếm lợi nhuận của các nhà đầu tư giúp bùng nổ số lượng các giao dịch cũng như các công ty lên sàn.
- 17-07-2021Bỏ túi hơn 7 tỷ USD khi công ty trở thành fintech giá trị nhất nước Anh
- 18-03-2021Để ngành fintech phát triển bùng nổ rồi lại kiểm soát gắt gao, mục đính của chính phủ Trung Quốc là gì?
- 12-10-2020Nhìn từ sự trỗi dậy của Ant Financial: Fintech đã thay đổi cả thế giới như thế nào và đằng sau đó ẩn chứa những mối nguy gì?
Một bầu không khí kỳ vọng cao thường bao quanh những người sáng lập của các công ty khởi nghiệp và những quỹ đầu tư mạo hiểm chống lưng cho họ: mọi người đều trở thành người truyền giáo cho dự án mới nhất của mình. Nhưng ngay cả khi sự nhiệt tình đó là điều dĩ nhiên, vẫn không thể bỏ qua một điều đáng kinh ngạc đang xảy ra trong lĩnh vực fintech.
Nhiều tiền hơn đang được đổ vào lĩnh vực này so với bình thường. Chỉ trong quý II vừa qua, ngành này đã thu hút được con số kỷ lục 34 tỷ USD vốn đầu tư mạo hiểm, theo CB Insights. Cứ 5 USD được đầu tư bằng nguồn vốn mạo hiểm trong năm nay thì có một đồng được rót vào fintech.
Các giao dịch cũng đang diễn ra với tốc độ điên cuồng. PitchBook, một công ty dữ liệu, tính toán rằng các hãng đầu tư mạo hiểm đã cùng nhau bán số cổ phần trị giá 70 tỷ USD trong các công ty khởi nghiệp fintech cho đến nay, gần gấp đôi so với cả năm 2020, đây rõ ràng là một năm bội thu.
Những giao dịch này bao gồm 32 vụ IPO. Các công ty Fintech đã tham gia vào 372 thương vụ mua lại và sáp nhập trong quý đầu tiên, trong đó có 21 thương vụ trị giá 1 tỷ USD trở lên.
Mới đây, Visa đã trả 1,8 tỷ euro (2,1 tỷ USD) cho Tink, một nền tảng thanh toán trực tuyến của Thụy Điển. JPMorgan Chase, ngân hàng lớn nhất của Hoa Kỳ, cho biết họ sẽ mua OpenInvest, công ty cung cấp các giải pháp đầu tư bền vững — đây cũng là lần thứ 3 trong 6 tháng ngân hàng này mua lại một công ty fintech.
Các công ty mới nổi khác, chẳng hạn như Raisin và Deposit Solutions, hai nền tảng trực tuyến của Đức kết nối ngân hàng với người tiết kiệm, cũng đang tiến hành thương vụ hợp nhất với nhau. Những công ty khác cũng đang chuẩn bị niêm yết lên sàn. Vào ngày 7 tháng 7, một thương vụ IPO ở London đã định giá Wise, một hãng cung cấp dịch vụ chuyển tiền, ở mức 11 tỷ USD.
Các đợt IPO trị giá hàng tỷ USD đã được thực hiện gần đây hoặc được lên kế hoạch bao gồm Marqeta (một công ty cung cấp dịch vụ thẻ ghi nợ), Robinhood (ứng dụng giao dịch chứng khoán miễn phí) và SoFi (một công ty cung cấp dịch vụ cho vay trực tuyến).
Cơn bão dồn dập này phản ánh nhu cầu từ các nhà đầu tư khi họ săn lùng những cơ hội lợi nhuận hấp dẫn trong bối cảnh cơn sóng kỹ thuật số đang diễn ra mạnh mẽ trên lĩnh vực tài chính. Nhưng nó cũng hé lộ một điều sâu sắc hơn. Sau khi trỗi dậy trên lĩnh vực tài chính, các công ty fintech đang trở thành một phần cấu thành nên lĩnh vực này.
Làn sóng hiện nay có gì mới?
Sự bùng nổ đầu tư hiện nay mang theo một số đặc điểm mới ngoài vấn đề quy mô. Xavier Bindel của JPMorgan cho biết ngay khi bắt đầu, làn sóng đã ngày càng tập trung vào các công ty lớn nhất. Những công ty nhỏ hơn và những công ty khởi nghiệp với các mô hình kinh doanh gặp khó khăn trong thời kỳ đại dịch không còn được ưa chuộng nữa. Quý đầu tiên của năm 2021 chứng kiến nhiều phi vụ tài trợ nhất từ trước đến nay cho các công ty khởi nghiệp trong lĩnh vực fintech có giá trị trên 100 triệu USD.
Địa bàn của hoạt động cũng đã thay đổi. 5 năm trước, câu chuyện trên lĩnh vực fintech chỉ tập trung tại Mỹ và Trung Quốc. Hiện nay, châu Âu đang bắt kịp. Một đợt gọi vốn vào tháng 6 đã định giá Klarna, một công ty khởi nghiệp cung cấp dịch vụ "mua ngay, trả sau" của Thụy Điển, ở mức 46 tỷ USD, và biến nó trở thành công ty fintech tư nhân có giá trị lớn thứ hai trên thế giới. Revolut, một ngân hàng kỹ thuật số có trụ sở tại London, đang hướng tới mức định giá 30 tỷ USD. Các công ty ở Mỹ Latinh và châu Á, đặc biệt được lãnh đạo bởi những người sáng lập được đào tạo tại Stanford hoặc Thung lũng Silicon, đã trở thành những thỏi nam châm thu hút các nhà đầu tư.
Cơn sốt còn mở rộng sang cả lĩnh vực thanh toán. Sự gia tăng tiết kiệm ở các nước giàu trong năm qua đã thúc đẩy cái gọi là công ty khởi nghiệp kinh doanh dịch vụ "công nghệ quản lý tài sản" (wealth-tech), chẳng hạn như các nhà môi giới trực tuyến và cố vấn đầu tư trực tuyến. Các công ty công nghệ bảo hiểm đã nhận được 1,8 tỷ USD thông qua 82 thương vụ trên toàn cầu trong quý đầu tiên của năm nay.
Hoạt động cho vay tỏ ra khó bị tác động hơn — có lẽ do bởi lĩnh vực này được quản lý chặt chẽ hơn — ngoại trừ trường hợp khi chuyển sang lĩnh vực thanh toán, như đã được đề cập trong trường hợp từ sự nổi lên của Klarna và các đối thủ của nó.
Điều này đã giúp đưa ra một lời giải thích cho sự bùng nổ tài trợ: sự tăng trưởng khổng lồ của thị trường cung cấp dịch vụ fintech trong thời kỳ đại dịch. Người tiêu dùng và các công ty đã nhanh chóng và dễ dàng điều chỉnh để thích ứng với tình trạng đóng cửa của các chi nhánh ngân hàng và các cửa hàng và kết quả của xu hướng số hóa trên lĩnh vực thương mại và tài chính. Nhiều thói quen mới của họ cũng có khả năng sẽ theo xu hướng mới.
Các nhân tố cụ thể đối với fintech cũng là nguyên nhân đằng sau sự bùng nổ này. Hầu hết các ngôi sao fintech hiện nay đều không thành công ngay lập tức mà kết quả này đã được hình thành từ đầu những năm 2010. Kể từ đó, số lượng người dùng của họ đã tăng lên hàng triệu người và các công ty này đang bắt đầu làm ăn có lãi.
Những điều này đã trở nên thành một xu hướng đủ lớn để xuất hiện trên màn hình radar của các quỹ đầu tư mạo hiểm cũng như các quỹ đầu tư tư nhân, chẳng hạn như TCV có trụ sở tại Mỹ (đã hỗ trợ Trade Republic, một biến thể của Robinhood ở Đức), SoftBank của Nhật Bản (một nhà đầu tư gần đây cho Klarna) và EQT của Thụy Điển (đã hỗ trợ Mollie, một công ty thanh toán Hà Lan, vào tháng trước).
Hơn nữa, một số tổ chức đầu tư - chẳng hạn như công ty quản lý tài sản (BlackRock), quỹ đầu tư quốc gia (GIC của Singapore) và quỹ hưu trí (Pension Plan Investment Board của Canada) - đã kiếm được nhiều tiền bằng cách mua cổ phần của các công ty công nghệ lớn trong những năm gần đây . Những tổ chức này hiện đang cố gắng đạt được lợi thế bằng cách đầu tư vào các công ty khởi nghiệp đầy hứa hẹn trước khi chúng được niêm yết.
Các khoản séc khổng lồ từ các nhà đầu tư này đến ngay khi các công ty fintech đang tìm cách mở rộng phát triển. Hầu hết các công ty khởi nghiệp được tạo ra nhằm mục đích "tách nhóm" cho lĩnh vực tài chính: để có thể tìm cách kiếm lời bằng cách đưa ra dịch vụ tốt hơn so với các ngân hàng. Tuy nhiên, giờ đây, hầu hết các công ty thành công này đều đang "gom nhóm" lại, và bổ sung thêm các sản phẩm mới với nỗ lực để trở thành một nền tảng.
Việc mua lại các công ty là một giải pháp giúp cung cấp một con đường tắt tiện lợi. Việc được định giá cao đồng nghĩa với việc các tập đoàn lớn thường có thể mua lại những công ty nhỏ hơn với giá rẻ bằng cách thực hiện hoán đổi vốn chủ sở hữu.
Stripe, công ty fintech tư nhân có giá trị nhất ở phương Tây, là một ví dụ điển hình về sự phát triển của lĩnh vực này. Công ty này được thành lập cách đây một thập kỷ và đưa ra dịch vụ giúp các công ty chấp nhận thanh toán trực tuyến. Hiện công ty này trị giá 95 tỷ USD, nó cũng cung cấp các dịch vụ từ lập kế hoạch thuế đến phòng chống gian lận. Có được lĩnh vực rộng đó một phần là do công ty này đạt được thông qua các thương vụ mua lại; kể từ tháng 10, họ đã mua lại ba công ty khác.
Một logic tương tự cũng được những gã khổng lồ trong lĩnh vực thẻ tín dụng sử dụng, họ cũng vốn đang cố gắng chống lại những đổi mới trong lĩnh vực thanh toán trực tuyến; và các ngân hàng, coi fintech là một cách để bắt kịp khoảng cách trong các dịch vụ kỹ thuật số của họ, đồng thời có thể cắt giảm chi phí và đa dạng hóa việc cho vay. Goldman Sachs và JPMorgan đang mang lại nhiều thương vụ mua lại nhỏ hơn dưới sự vỏ bọc là các ứng dụng tiêu dùng đa năng mới. Do đó, sự phân biệt giữa fintech và ngân hàng truyền thống cuối cùng có thể bị nhạt nhòa.
Lựa chọn đúng đắn?
Tất cả việc chia tách và hợp nhất này cũng mang lại rủi ro. Một là cái giá quá đắt để trả cho các công ty fintechs là không hợp lý. Visa đang mua lại Tink với giá gấp 60 lần doanh thu hàng năm của công ty khởi nghiệp này; Wise được đánh giá cao gấp 20 lần doanh thu và 285 lần lợi nhuận. Cụ thể là các ngân hàng chỉ có thể tìm thấy các công ty fintech đầy hứa hẹn khi chúng được đính giá quá đắt.
Một rủi ro khác là việc cạnh tranh và đổi mới bị kìm hãm. Những người sáng lập của các công ty khởi nghiệp đã được mua lại thường rời đi vào cuối giai đoạn "trao quyền" — khoảng thời gian tối thiểu mà họ phải gắn bó trước khi có thể bán cổ phần của mình, thường là từ một đến ba năm. Đây là nền văn hóa cho phép một công ty phát triển sau đó có thể tàn lụi. Các công ty Fintech được các ngân hàng mua lại nói riêng có thể gặp khó khăn: sau một thương vụ, xung đột về văn hóa doanh nghiệp có thể diễn ra; khách hàng thường rời bỏ. Hầu hết các ngân hàng kỹ thuật số được mua lại bởi những ngân hàng truyền thống, chẳng hạn như Simple (được mua lại bởi BBVA, một ngân hàng Tây Ban Nha), đã bị đóng cửa hoặc bị bán.
Tuy nhiên, một điều có vẻ rõ ràng. Các công ty Fintech đang đạt được một dấu mốc quan trọng một cách đáng kinh ngạc: giá trị của chúng đã tăng lên 1.100 tỷ USD, tương đương 10% giá trị của toàn ngành ngân hàng và lĩnh vực thanh toán toàn cầu, so với mức 4% vào năm 2018.
Tham khảo The Economist