Đề nghị có hành lang pháp lý về ‘tiền ảo’ để thu thuế, tránh lừa đảo
Năm 2023, tài sản mã hóa vào thị trường Việt Nam khoảng 120 tỷ USD. Việt Nam cũng nằm trong tốp đầu thế giới về người dân sở hữu tài sản số, có thời điểm chỉ sau UAE và Hoa Kỳ.
Kỳ lân công nghệ phải sang Singapore lập trụ sở
Chiều 21/8, Cổng Thông tin điện tử Chính phủ tổ chức Tọa đàm “Chính sách thuế - tài sản số và trách nhiệm của doanh nghiệp”.
Thông tin tại tọa đàm, Phó Chủ tịch thường trực Hiệp hội Blockchain Việt Nam Phan Đức Trung cho biết, theo báo cáo của tổ chức Chainalysis chuyên về phân tích thị trường, năm 2022, tài sản mã hóa vào thị trường Việt Nam khoảng 100 tỷ USD. Con số này tăng trưởng đến năm 2023 là 120 tỷ USD. Năm 2021-2022, Việt Nam luôn nằm trong tốp 3 toàn cầu về người dân sở hữu tài sản số chỉ sau UAE và Hoa Kỳ.
Theo ông Trung, khi nói đến tài sản số không chỉ là những con số mang tính chất quy mô về dòng tiền dịch chuyển về Việt Nam, mà còn có quy mô cạnh tranh khu vực. Rất nhiều quốc gia trong khu vực ban hành luật lệ, chính sách để thúc đẩy tạo ra hành lang pháp lý cho những dòng tài sản này đóng góp vào nền kinh tế mang giá trị tích cực chứ không thể có cách nhìn tiêu cực là ảnh hưởng tới ổn định kinh tế từng quốc gia nói riêng.
Theo ông Đậu Anh Tuấn, Phó Tổng Thư ký, Trưởng Ban Pháp chế VCCI, trong dự thảo Luật Công nghiệp công nghệ số đã đưa ra khái niệm về tài sản số. Mặc dù tài sản số hay tiền ảo trên thực tiễn đã rất phát triển nhưng tại Việt Nam chưa có khung khổ pháp lý cho loại tài sản này. Chính vì thế, dự thảo Luật Công nghiệp công nghệ số lần đầu tiên tại Điều 8 có quy định về tài sản số.
Theo ông Tuấn, khi có khung khổ chính thức thì hoạt động đầu tư kinh doanh theo lĩnh vực tài sản số mới có thể hình thành và phát triển được. “Vì chưa có khung khổ pháp lý chính thức nên Tập đoàn Sky Mavis, một tập đoàn kỳ lân công nghệ của Việt Nam có hệ sinh thái game, là doanh nghiệp thuần Việt Nam phải chọn Singapore làm nơi đóng trụ sở ”, ông Tuấn nói.
Trưởng Ban Pháp chế VCCI khẳng định, đã có rất nhiều giao dịch liên quan tới tài sản số, nếu chúng ta chưa có khung khổ pháp lý thì giao dịch này trở nên rủi ro, mỏng manh, những người liên quan không được bảo vệ.
“Khung khổ pháp lý cho tài sản số, cho các giao dịch liên quan tới tài sản số là điều Việt Nam cần cân nhắc và nhanh chóng thúc đẩy”, ông Tuấn nêu quan điểm.
Ngăn ngừa lừa đảo , thu được thuế phí
Ở góc nhìn thuế, phí, ông Trương Bá Tuấn, Phó Cục trưởng Cục Quản lý, giám sát chính sách thuế, phí và lệ phí (Bộ Tài chính) cho biết, dù không có khung pháp lý liên quan đến tài sản số nhưng các giao dịch về tài sản số vẫn diễn ra thông qua sàn giao dịch nước ngoài và cá nhân.
Vì vậy, Phó Cục trưởng Cục Quản lý, giám sát chính sách thuế, phí và lệ phí cho rằng cần thiết phải có khung pháp lý liên quan đến tài sản số. Trong đó, phải xác định và làm rõ được định nghĩa tài sản số là gì cũng như vị trí pháp lý của tài sản số và những đặc trưng, đặc tính của tài sản số. Như vậy, các cơ quan quản lý nhà nước liên quan mới có các biện pháp, chính sách để hình thành khung pháp lý đồng bộ.
Để quản lý được vấn đề này, ông Trương Bá Tuấn cho rằng, không chỉ Bộ Tài chính mà nhiều bộ, ngành có liên quan tham gia. Trường hợp dự thảo Luật Công nghiệp công nghệ số được Quốc hội thông qua, Bộ Tài chính sẽ triển khai thực hiện các vấn đề liên quan, bao gồm cả hoàn thiện chính sách về thuế.
Trưởng Ban Pháp chế VCCI Đậu Anh Tuấn cũng cho rằng cần có hành lang pháp lý, để thực hiện việc thu các sắc thuế như là thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp. Ngoài ra, có hành lang pháp lý sẽ tránh được tình trạng một số sàn giao dịch huy động tiền của nhà đầu tư rồi sập , khiến nhà đầu tư mất trắng như thời gian vừa qua.
Tiền phong