MỚI NHẤT!

Đọc nhanh >>

Doanh nghiệp Việt lạc quan về thương mại quốc tế

Doanh nghiệp Việt lạc quan về thương mại quốc tế

Số liệu thương mại trong 11 tháng đầu năm ghi nhận con số xuất siêu kỷ lục, trong bối cảnh doanh nghiệp tại Việt Nam vẫn lạc quan nhất thế giới về thương mại toàn cầu.

Khi cả thế giới chống chọi với đại dịch COVID-19, đa số các doanh nghiệp Việt Nam đã nhanh chóng tự điều chỉnh sang hình thức 'bình thường mới' và đang hướng tới tương lai với một tinh thần lạc quan hơn nhiều so với các doanh nghiệp khác trên thế giới.

Đó là những thông tin từ khảo sát Navigator của ngân hàng HSBC - 'Hiện tại, tương lai và ý nghĩa đối với doanh nghiệp'. Đây là khảo sát toàn cầu được thực hiện toàn diện nhất về thương mại quốc tế với hơn 10.000 doanh nghiệp tại 39 quốc gia và vùng lãnh thổ trên toàn cầu, bao gồm 200 doanh nghiệp tại Việt Nam.

Theo đó, 55% doanh nghiệp được khảo sát vẫn lạc quan về tăng trưởng (so với mức 56% của năm 2019) và cao hơn mức trung bình toàn cầu 29% là một minh chứng cho câu chuyện thành công của Việt Nam trong việc đối phó và loại trừ dịch bệnh COVID-19. Tuy vậy, không phải tất cả mọi người đều lạc quan khi số lượng doanh nghiệp thể hiện sự bi quan hoặc "dự kiến sẽ thu hẹp hoạt động" tăng lên trong năm nay - 26% so với chỉ 4% vào năm 2019.

Dịch bệnh COVID-19 cũng ảnh hưởng đến kỳ vọng tăng trưởng khi số lượng doanh nghiệp Việt dự kiến sẽ tăng trưởng hơn 5% giảm đi đáng kể (năm 2020: 66% so với năm 2019: 92%).

Nhưng nhìn chung, theo nhóm phân tích các doanh nghiệp Việt ít bị ảnh hưởng bởi đại dịch hơn so với các doanh nghiệp trên toàn cầu, với khoảng 59% doanh nghiệp (so với 45% trên toàn cầu) dự kiến đến cuối năm 2021 có thể đạt được mức lợi nhuận tại thời điểm trước dịch và 86% kỳ vọng đạt được vào cuối năm 2022.

Ông Tim Evans – Tổng Giám đốc Ngân hàng HSBC Việt Nam nhận xét: ‘Việt Nam nhìn chung đã quay trở lại môi trường kinh doanh bình thường. Tất nhiên, mỗi lĩnh vực khác nhau đều có những thách thức riêng, nhưng những gì mà hầu hết các doanh nghiệp chia sẻ trong khảo sát cho thấy họ cần phải đầu tư thêm để nắm bắt những cơ hội trong tương lai. Thông qua việc nâng cao tay nghề của người lao động, nắm bắt công nghệ mới và gia tăng hiệu quả hoạt động, các doanh nghiệp cho rằng họ có thể đạt được các mục tiêu tăng trưởng trong tương lai’.

Đầu tư để thúc đẩy tăng trưởng trong tương lai

Để thích ứng với các yếu tố khách quan, 68% doanh nghiệp Việt Nam đã thực hiện các thay đổi trong vòng 12 tháng qua (so với 74% trên toàn cầu). Nhu cầu cần cắt giảm chi phí (46%), giảm thiểu rủi ro (46%) và tăng cường hợp tác (43%) là những yếu tố hàng đầu thúc đẩy các doanh nghiệp thực hiện việc thay đổi.

Tuy nhiên cắt giảm chi phí không đồng nghĩa với việc cắt giảm đầu tư trong tương lai. 88% doanh nghiệp Việt Nam có ý định tăng cường đầu tư cho các hoạt động kinh doanh của mình trong năm tới (nhiều hơn so với 2/3 doanh nghiệp trên toàn cầu). Khoảng 69% doanh nghiệp dự định trong năm 2021 sẽ tập trung đầu tư vào các kênh bán hàng, 68% vào nâng cao kỹ năng cho lực lượng lao động, 67% vào trải nghiệm khách hàng và 67% vào quản lý dòng tiền / vốn.

Đối với đầu tư vào công nghệ, 61% doanh nghiệp cho rằng sẽ thực hiện để cải thiện tốc độ tiếp cận thị trường, 59% để nhắm vào khách hàng mới và 55% để tăng cường tự động hóa / hiệu quả hoạt động.

Doanh nghiệp Việt lạc quan về thương mại quốc tế - Ảnh 1.

91% các doanh nghiệp Việt Nam cũng rất lạc quan về thương mại quốc tế so với các doanh nghiệp trên toàn cầu (72%), mặc dù phần lớn các doanh nghiệp cho rằng thương mại quốc tế đang trở nên ngày càng khó khăn hơn.

Lạc quan về thương mại quốc tế

91% các doanh nghiệp Việt Nam cũng rất lạc quan về thương mại quốc tế so với các doanh nghiệp trên toàn cầu (72%), mặc dù phần lớn các doanh nghiệp cho rằng thương mại quốc tế đang trở nên ngày càng khó khăn hơn. Điều đáng khích lệ là các doanh nghiệp Việt Nam đều lạc quan hơn về triển vọng thương mại quốc tế trong tương lai và họ sẽ tiếp tục tìm cách mở rộng kinh doanh sang các thị trường khác.

Chủ nghĩa bảo hộ tiếp tục được cảm nhận mạnh mẽ khi có 90% doanh nghiệp Việt Nam cho rằng tính bảo hộ đang gia tăng. Cạnh tranh về giá, xây dựng quan hệ đối tác địa phương và bán hàng qua các kênh kỹ thuật số là những chiến lược chính để đối phó với chủ nghĩa bảo hộ.

Đối với thương mại toàn cầu, các nước thuộc khu vực châu Á Thái Bình Dương và châu Âu, cũng như Trung Quốc Đại lục, vẫn được đánh giá là những đối tác thương mại quan trọng nhất đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Tầm quan trọng của các nước trong khu vực châu Á Thái Bình Dương đã tăng từ mức 46% vào năm 2019 lên 63% vào năm 2020.

Hiệp định RCEP được dự báo là sự khởi đầu của một kỷ nguyên mới trong đó các nước châu Á (bao gồm tất cả các quốc gia trong khu vực ASEAN cùng với Úc, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và New Zealand) sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc thiết lập các tiêu chuẩn giúp thúc đẩy quá trình tăng trưởng tiếp theo trên toàn cầu.

Ông Tim Evans cho biết thêm: ‘Hiệp định RCEP tập hợp 15 quốc gia châu Á lại nhằm hỗ trợ thúc đẩy chương trình nghị sự về tăng cường thương mại xuyên biên giới. Là một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất và năng động nhất trong khu vực, Việt Nam hưởng nhiều lợi ích từ hiệp định thương mại tự do sâu rộng này. Thông qua việc đem lại khả năng tiếp cận nhanh hơn, hiệu quả hơn và miễn thuế cho thị trường khoảng 2,3 tỷ dân, Hiệp định RCEP có thể giúp các doanh nghiệp Việt Nam tăng cường xuất khẩu và thu hút hàng hóa chất lượng cao cho người tiêu dùng. Tất cả chúng ta đều hy vọng rằng sự lạc quan sẽ quay trở lại với nền kinh tế toàn cầu vào thời điểm này năm sau’.

Theo Linh Nga

Diền đàn doanh nghiệp

CÙNG CHUYÊN MỤC

XEM
Trở lên trên