[Gặp gỡ thứ Tư] 'Tăng trưởng kinh tế cả năm đạt 6,5% rất khó khả thi'
Để tăng trưởng kinh tế cả năm đạt 6,5%, trong 6 tháng cuối năm, kinh tế cả nước cần phải tăng trên 9%. Điều này là rất khó khả thi và là thách thức rất lớn trong bối cảnh nền kinh tế hiện nay, bà Nguyễn Thị Mai Hạnh, Phó Vụ trưởng Phụ trách Vụ Hệ thống tài khoản Quốc gia nhận định.
- 05-07-2023Gấp rút đầu tư phát triển logistics
- 05-07-2023Lâm Đồng: Yêu cầu tạm dừng mua điện của doanh nghiệp núp bóng dự án
- 05-07-2023Thứ trưởng Công Thương: Điện mặt trời được 'ưu tiên phát triển không giới hạn'
Tại hội nghị trực tuyến toàn quốc Chính phủ với các địa phương và phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 6/2023, Bộ trưởng KH&ĐT Nguyễn Chí Dũng đã có dự báo 2 kịch bản tăng trưởng quý III và của cả năm.
Trong đó, kịch bản 1, tăng trưởng cả năm dự kiến đạt 6%; tăng trưởng quý III đạt 6,8%, quý IV đạt 9% (cao hơn lần lượt 0,3 điểm % và 1,9 điểm % so với kịch bản tại Nghị quyết 01 của Chính phủ), tính chung 6 tháng cuối năm tăng trưởng phải đạt 8%.
Kịch bản 2, tăng trưởng cả năm dự kiến đạt 6,5%; tăng trưởng quý III đạt 7,4%, quý IV đạt 10,3% (cao hơn lần lượt 0,9 điểm % và 3,2 điểm % so với kịch bản tại Nghị quyết 01), tính chung 6 tháng cuối năm tăng trưởng phải đạt 8,9%.
Để đạt được chỉ tiêu tăng trưởng cả năm là rất khó khăn khi tăng trưởng kinh tế 6 tháng đầu năm chỉ là 3,72%, bà Nguyễn Thị Mai Hạnh, Phó Vụ trưởng Phụ trách Vụ Hệ thống tài khoản Quốc gia (Tổng cục Thống kê) đã có trao đổi với Nhadatu.vn liên quan vấn đề này.
Tăng trưởng kinh tế cả nước 6 tháng đầu năm ước đạt 3,72%, thấp hơn nhiều so với mục tiêu đề ra. Theo bà, nguyên nhân là gì?
Bà Nguyễn Thị Mai Hạnh: Theo kịch bản tăng trưởng đã đề ra trong Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 6/1/2023 của Chính phủ, để đạt mục tiêu tăng trưởng 6,5% năm 2023, thì 6 tháng đầu năm cần phải đạt được mức tăng 6,2% (trong đó quý 1 tăng 5,6%, quý 2 tăng 6,7%).
Tuy vậy, kết quả biên soạn GDP cho thấy, tăng trưởng kinh tế cả nước 6 tháng đầu năm ước đạt 3,72% (trong đó quý 1 tăng 3,28%, quý 2 tăng 4,14%), thấp hơn nhiều so với mục tiêu tăng trưởng (quý 1 thấp hơn 2,32 điểm %; quý 2 thấp hơn 2,56 điểm %). Kết quả này là chủ yếu do khối ngành công nghiệp tăng trưởng thấp, công nghiệp 6 tháng đầu năm chỉ đạt 0,44%, đặc biệt ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chỉ đạt 0,37% do chính sách tiền tệ thắt chặt tác động mạnh đến các doanh nghiệp, các hoạt động kinh tế, đầu tư, tiêu dùng toàn cầu.
Ngoài ra, nhiều nguyên nhân tác động mục tiêu tăng trưởng, bối cảnh thế giới tiếp tục biến động phức tạp, khó lường, cạnh tranh chiến lược nước lớn gay gắt hơn, kéo theo sự tham gia của nhiều quốc gia, khu vực; lạm phát tăng cao tại một số thị trường nhập khẩu lớn dẫn đến nhu cầu tiêu dùng thắt chặt hơn đã ảnh hưởng đến cơ hội xuất khẩu và khai thác thị trường của các doanh nghiệp trong nước; chính sách tiền tệ thắt chặt tác động mạnh đến các doanh nghiệp, các hoạt động kinh tế, đầu tư, tiêu dùng toàn cầu.
Kinh tế toàn cầu tiếp tục suy giảm, nhiều nền kinh tế lớn tăng trưởng chậm lại; theo dự báo của các tổ chức quốc tế tháng 6/2023, tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2023 tăng nhẹ so với dự báo từ đầu năm nhưng vẫn thấp hơn so với tốc độ tăng trưởng năm 2022 từ 0,5 đến 1 điểm phần trăm; rủi ro hệ thống ngân hàng, nợ công, nợ của doanh nghiệp… gia tăng; kinh tế Trung Quốc đang phục hồi chậm và còn nhiều bất định.
Ở trong nước, xu hướng phục hồi sản xuất trong các ngành kinh tế, đặc biệt là ngành công nghiệp chế biến chế tạo là có nhưng chưa thực sự bền vững; sức bật của các ngành kinh tế công nghiệp chủ lực như dệt may, chế biến thực phẩm, sản xuất sản phẩm điện tử, chế biến gỗ, sản xuất ô tô, sản xuất kim loại còn khá yếu.
Số doanh nghiệp gia nhập và quay trở lại thị trường trong 6 tháng đầu năm giảm so với cùng kỳ (giảm 2,9%) trong khi số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường có xu hướng tăng (tăng 19,7%).
Tăng trưởng tín dụng thấp, quý I và quý II chỉ đạt lần lượt 2,58% và 3,13% khiến khả năng hấp thụ vốn của doanh nghiệp và nền kinh tế đang gặp khó khăn. Thị trường bất động sản tiếp tục ảm đạm, dòng tiền luân chuyển bị hạn chế, đặc biệt trong bối cảnh áp lực đáo hạn và trả nợ trái phiếu doanh nghiệp năm 2023 lớn.
Tiến độ giải ngân vốn đầu tư công chậm hơn so với yêu cầu. Mặc dù các bộ, ngành, địa phương đã tập trung chỉ đạo sát sao, tạo điều kiện thuận lợi cho chủ đầu tư, nhà thầu tập trung đẩy mạnh tiến độ thi công các dự án/công trình, nhưng việc thực hiện vốn đầu tư công 6 tháng đầu năm 2023 chưa đạt kỳ vọng.
Một số thị trường then chốt, như: tiền tệ, chứng khoán và trái phiếu doanh nghiệp, thị trường bất động sản và lao động... đang bộc lộ rủi ro, thanh khoản eo hẹp hơn; vốn cho doanh nghiệp khó tiếp cận hơn, đang là thách thức đặt ra.
Tăng trưởng kinh tế cả năm đạt 6,5% - khó khả thi
6 tháng đầu năm tăng trưởng thấp như vậy. Liệu có hoàn thành mục tiêu 6,5% cả năm?
Bà Nguyễn Thị Mai Hạnh: Để tăng trưởng kinh tế cả năm đạt 6,5%, trong 6 tháng cuối năm, kinh tế cả nước cần phải tăng trên 9%. Điều này là rất khó khả thi và là thách thức rất lớn trong bối cảnh nền kinh tế hiện nay và một số ngành kinh tế phải có tốc độ tăng trưởng mạnh mẽ như: Công nghiệp chế biến chế tạo (tăng trên 13,4%), sản xuất và phân phối điện (tăng 13,6%), xây dựng (đạt trên 8,7%), bán buôn, bán lẻ (tăng trên 8,5%), vận tải kho bãi (tăng trên 9,2%), dịch vụ lưu trú và ăn uống (tăng trên 12,3%).
Trong bối cảnh các khó khăn, thách thức vẫn chưa thực sự chấm dứt như hiện nay, kinh tế thế giới vẫn tồn tại nhiều yếu tố, rủi ro tiềm ẩn, khó dự báo, cầu tiêu dùng thế giới vẫn yếu, việc phát triển kinh tế 6 tháng cuối năm để đạt mục tiêu là một bài toán khó.
Triển vọng tăng trưởng từ các yếu tố tích cực
Kinh tế Việt Nam vẫn chịu nhiều áp lực từ thị trường thế giới được dự báo năm 2023 tăng trưởng thấp nhưng chúng ta vẫn thấy triển vọng trong 6 tháng cuối năm?
Bà Nguyễn Thị Mai Hạnh: Đúng vậy, dù còn nhiều khó khăn nhưng 6 tháng cuối năm kinh tế của Việt Nam vẫn có triển vọng tăng trưởng từ các yếu tố tích cực.
Cụ thể, trong sản xuất, hoạt động Nông, lâm nghiệp và thủy sản vẫn duy trì tăng trưởng khá tốt, đảm bảo ổn định thị trường tiêu dùng nội địa và nguồn cung xuất khẩu. Hoạt động sản xuất công nghiệp bắt đầu tăng nhẹ trong những tháng gần đây là tín hiệu tốt cho 6 tháng cuối năm. Khu vực dịch vụ dự báo sẽ tiếp tục tăng trưởng do cầu du lịch gia tăng.
Ngân hàng Nhà nước tiếp tục giảm lãi suất điều hành trong tháng 6 là cơ sở để giảm lãi suất cho vay; tạo điều kiện cho doanh nghiệp tham gia gói hỗ trợ lãi suất theo Nghị định 31/2022/NĐ-CP để giúp doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn tín dụng, khơi thông khó khăn trong sản xuất hiện nay.
Hoạt động xuất nhập khẩu 6 tháng cuối năm có một số dấu hiệu tích cực. Trung Quốc nhà tiêu thụ lớn, cũng là nhà cung cấp hàng hóa và nguyên liệu giá rẻ của Việt Nam đã mở cửa trở lại. Bên cạnh đó, mặc dù thương mại hàng hóa thế giới 6 tháng đầu năm ở thấp nhưng nhu cầu ở một số nền kinh tế phát triển như Mỹ, Nhật Bản có dấu hiệu tăng trở lại.
Tiêu dùng trong nước tiếp tục được phục hồi sau đại dịch COVID-19 và dự kiến tăng do kỳ vọng hoạt động du lịch khởi sắc trong thời gian tới. Cầu nội địa tăng sẽ giúp thị trường hàng hóa sôi động và an toàn trong bối cảnh kinh tế thế giới biến động khó lường.
Hoạt động du lịch sẽ tiếp tục sôi nổi, tín hiệu tăng trưởng du lịch tiếp tục rõ nét trong những tháng tới, đặc biệt là gia tăng lượng khách quốc tế đến Việt Nam sẽ giúp cầu tiêu dùng cải thiện.
Giải ngân vốn đầu tư công được đẩy mạnh, tập trung triển khai các dự án thuộc Kế hoạch đầu tư công trung hạn và các dự án thuộc Chương trình phục hồi phát triển kinh tế KTXH; xu hướng dịch chuyển dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam sẽ kích cầu đầu tư, từ đó sẽ tác động tích cực đến nền kinh tế. Đây cũng là động lực chính để phát triển kinh tế 6 tháng cuối năm.
Thuế VAT giảm 2% từ ngày 1/7/2023 - 31/12/2023 sẽ góp phần làm giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, từ đó giúp doanh nghiệp tăng khả năng phục hồi và mở rộng sản xuất kinh doanh.
Đầu tư nước ngoài có nhiều triển vọng thu hút dòng FDI của các doanh nghiệp Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan. Điều này góp phần đa dạng hóa chuỗi cung ứng hàng hóa từ Việt Nam.
Trên cơ sở đó, tăng trưởng kinh tế nhiêu khả năng sẽ được cải thiện trong các quý tới. Tuy nhiên, với những khó khăn từ bên ngoài và nội tại nền kinh tế thì tăng trưởng kinh tế sẽ không cao như kỳ vọng.
Để đạt được tăng trưởng tích cực trong năm 2023 là thách thức rất lớn, Chính phủ cần hành động như thế nào để áp sát chỉ tiêu đề ra?
Bà Nguyễn Thị Mai Hạnh: Tôi nghĩ rằng không chỉ Chính phủ mà cần sự nỗ lực, quyết tâm cao, sự chung sức, đồng lòng để tạo nên sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, doanh nghiệp và Nhân dân. Các ngành, các cấp tăng cường dự báo, chủ động điều hành linh hoạt, phù hợp với tình hình mới, kịp thời ứng phó với mọi tình huống phát sinh, tập trung triển khai hiệu quả, đồng bộ các chính sách hỗ trợ phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, tập trung vào một số nội dung giải pháp.
Thứ nhất, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, thực hiện chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, hiệu quả, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa, chính sách vĩ mô khác; thực hiện hiệu quả các giải pháp về tiền tệ, lãi suất nhằm hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi và phát triển sản xuất, kinh doanh; điều hành tín dụng tập trung vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh tạo động lực tăng trưởng; điều hành tỷ giá phù hợp, tăng cường năng lực thích ứng, chống chịu và an toàn của hệ thống tài chính, ngân hàng, khơi thông dòng vốn và thúc đẩy tăng trưởng tín dụng, tạo nguồn vốn cho doanh nghiệp khắc phục khó khăn và đẩy mạnh hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Thứ hai, tập trung triển khai quyết liệt các giải pháp thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công, Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội; tích cực đẩy nhanh tiến độ các công trình hạ tầng giao thông trọng điểm, quan trọng quốc gia, có tính liên vùng và hạ tầng đô thị lớn; xử lý kịp thời, hiệu quả các khó khăn, vướng mắc về pháp lý, tập trung xử lý ngay những điểm nghẽn, nút thắt chính trong hoạt động đầu tư công như công tác chuẩn bị dự án, giải phóng mặt bằng.
Thứ ba, đẩy mạnh sản xuất, tiêu dùng trong nước, nhất là các mặt hàng có nguyên, nhiên, vật liệu đầu vào nội địa để hạn chế nhập khẩu và chủ động nguồn cung. Thường xuyên rà soát để kịp thời tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc; hỗ trợ hiệu quả các doanh nghiệp thiếu vốn, giá nguyên liệu đầu vào tăng cao, khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm, ... .
Thứ tư, triển khai hiệu quả các giải pháp phù hợp kích cầu thương mại và dịch vụ, phát triển du lịch; thúc đẩy xuất khẩu tại các thị trường truyền thống, tập trung đẩy mạnh xuất khẩu hàng nông, lâm nghiệp và thủy sản; mở rộng, đa dạng hóa thị trường và sản phẩm xuất khẩu; khai thác hiệu quả các Hiệp định thương mại tự do (FTA) đã ký kết; điều chỉnh kịp thời chính sách nhằm tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài có chất lượng cao.
Thứ năm, đảm bảo nguồn điện ổn định đáp ứng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, hộ cá thể và nhu cầu tiêu dùng của dân cư trong mùa cao điểm nắng nóng.
Thứ sáu, tiếp tục thực hiện các chính sách hỗ trợ sản xuất, nâng cao chất lượng cho các ngành hàng nông sản theo tiêu chuẩn của các thị trường khó tính để mở rộng thị trường, ưu tiên kêu gọi đầu tư phát triển các ngành công nghiệp chế biến những sản phẩm nông nghiệp làm ra, nhằm tiêu thụ sản phẩm tại chỗ, hạ giá thành sản phẩm, tăng lợi nhuận cho người sản xuất nông nghiệp và giải quyết nguồn lao động ở nông thôn hiện nay.
Xin trân trọng cảm ơn bà!
Nhà đầu tư