'Giải mã' nguyên nhân khiến TTCK Mỹ bất ngờ giảm điểm mạnh, Dow Jones trải qua ngày tồi tệ nhất kể từ tháng 3
CNBC nhận định, những dấu hiệu “rạn nứt” trên thị trường tài chính Mỹ không giống bình thường.
CNBC nhận định, những dấu hiệu “rạn nứt” trên thị trường tài chính Mỹ không giống bình thường. Thay vào đó, những gì đang diễn ra giống như một vấn đề có sức ảnh hưởng lan rộng. Việc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) giữ lãi suất ở mức thấp và nhà đầu tư Phố Wall đều được hưởng thành quả đang thay đổi.
Giờ đây, câu chuyện diễn ra trên Phố Wall là lãi suất cao sẽ được duy trì trong thời gian dài hơn. Đây vốn là ý kiến mà nhiều quan chức Fed đã nỗ lực thuyết phục thị trường, song giới đầu tư dường như chỉ mới bắt đầu tiếp thu.
Tâm lý thị trường trở nên lung lay mạnh hơn ở phiên giao dịch ngày 3/10, khi các chỉ số chính đều giảm mạnh và trái phiếu chính phủ tăng lên mức cao nhất trong khoảng 16 năm.
Quincy Krosby, chiến lược gia trưởng toàn cầu của LPL Financial, cho hay: “Khi lãi suất ở mức 0, thì lợi suất trái phiếu Kho bạc 10 năm lên tới 5%, nhưng giờ đây mọi thứ sẽ phải thay đổi. Chi phí vốn đang tăng lên, các doanh nghiệp cần tái cấp vốn sẽ phải đối diện với mức lãi suất cao hơn.”
Lãi suất tăng mạnh là điều đặc biệt đáng ngại khi các doanh nghiệp Mỹ đang chuẩn bị bước vào mùa báo cáo tài chính.
Krosby nhận định thêm: “Tất cả những điều này đang được thị trường tiếp nhận, mọi thứ đang rất khó khăn.”
Lo ngại về tăng trưởng kinh tế và lạm phát
Một số diễn biến từ đầu phiên 3/10 đã cho thấy những dấu hiệu rằng đây sẽ là một ngày không mấy suôn sẻ với Phố Wall, khi vừa trải qua một tháng 9 đầy trắc trở.
Tuy nhiên, thị trường bị xáo trộn mạnh khi Bộ Lao động Mỹ công bố báo cáo, cho thấy cơ hội việc làm tăng mạnh hơn trong tháng 8, trái ngược với dự đoán rằng thị trường lao động đang hạ nhiệt cùng với đó là áp lực tăng trưởng tiền lương giảm bớt.
Do đó, giới đầu tư còn ngày càng lo ngại rằng Fed sẽ buộc phải thắt chặt chính sách tiền tệ thêm nữa. Tâm lý đó càng phổ biến hơn trong tuần này, khi 4 nhà hoạch định chính sách của Fed ủng hộ việc tiếp tục tăng lãi suất hoặc nói rằng lãi suất cao sẽ được duy trì trong thời gian dài hơn.
Ngoài cổ phiếu, lợi suất của các trái phiếu chính phủ 10 năm và 30 đã đạt mức cao nhất từng chứng kiến khi Mỹ chuẩn bị rơi vào khủng hoảng tài chính.
Krosby cho hay: “Phần lớn nền kinh tế đã tăng trưởng nhờ môi trường lãi suất thấp và lãi suất âm. Giờ đây, mọi thứ đang điều chỉnh để phù hợp hơn với môi trường lãi suất được coi là điều bình thường hơn trong lịch sử.”
Việc “làm quen” với môi trường lãi suất “bình thường” hơn dường như không phải điều gì quá khủng khiếp. Nhìn chung, trước khủng hoảng tài chính, lãi suất trái phiếu 10 năm dao động ở mức trung bình khoảng 7%, dù con số này cũng thay đổi theo các đợt tăng lãi suất vào đầu những năm 1980.
Khó khăn về tài chính của các doanh nghiệp
Nhiều bộ phận của nền kinh tế đang phải đối mặt với rủi ro khá lớn về lãi suất nhưng không bằng các ngân hàng. Đầu năm nay, ngành này đã gặp cơn chán động bởi sự sụp đổ của một số ngân hàng, khi họ nắm giữ quá nhiều trái phiếu chính phủ dài hại sau đó buộc phải bán lỗ vì bị rút tiền gửi.
Theo Tổ chức Tiền gửi Liên bang Mỹ (FDIC), trong quý II, các khoản lỗ chưa thực hiện của các ngân hàng lên tới 558,4 tỷ USD, tăng 8,3% so với quý trước. Trong đó, giá trị trái phiếu được nắm giữ đến ngày đáo hạn đạt tổng cộng 309,6 tỷ USD.
Larry McDonald, nhà sáng lập của The Bear Traps Report, một chuyên gia kỳ cựu trên Phố Wall, cho biết con số trên dự kiến có thể còn tăng lên. Ông nói, nếu các ngân hàng phải bù lỗ, họ có thể phải phát hành thêm cổ phiếu. Điều này sẽ khiến cổ phiếu của họ rớt giá và có thể là nguyên nhân khiến SPDR S&P Bank ETF giảm hơn 2% ở phiên 3/10.
Ngoài ra, người tiêu dùng Mỹ cũng đang cảm nhận được áp lực từ việc lãi suất cao hơn, từ thanh toán các khoản thế chấp, nợ thẻ tín dụng đến các khoản vay cá nhân. Hơn 36% ngân hàng Mỹ đã thắt chặt các tiêu chuẩn cho vay trong quý III, tương tự như các đợt suy thoái trước đây.
Đồng thời, những rắc rối ở Washington cũng làm nhiều trái chủ lo ngại về vấn đề nợ công của Mỹ, vốn ở mức gần 120% GDP và chi phí tài chính ròng cũng đang tăng.
Chưa dừng ở đó, nhà đầu tư nước ngoài cũng đang dần “rời bỏ” trái phiếu chính phủ Mỹ, khi tỷ lệ nắm giữ của Trung Quốc giảm khoảng 17%, tương đương 175 tỷ USD trong năm qua, theo Bộ Tài chính. Fed cũng đang thực hiện bước đi tương tự, giảm lượng nắm giữ trái phiếu Kho bạc hơn 800 tỷ USD trong chiến dịch thắt chặt kể từ tháng 6/2022.
Lãi suất khi nào sẽ đạt đỉnh?
Hiện tại, nhiều ý kiến cho rằng, trừ khi có điều gì thay đổi nhanh chóng thì kinh tế Mỹ mới tránh được một cuộc suy thoái.
McDonald nói về NHTW: “Họ không thể tăng lãi suất thêm 1 điểm cơ bản nữa. Mọi thứ quá căng thẳng, bước đi như vậy đang gây ra nhiều hệ luỵ.”
Cựu kinh tế gia của Nhà Trắng, Joseph LaVorgna, cũng cho rằng việc tăng lãi suất có thể đã gần kết thúc. Hậu quả tiềm tàng của những động thái thắt chặt sẽ là suy thoái kinh tế và Fed phải mua trái phiếu trở lại.
Ngoài ra, thị trường lao động hạ nhiệt hoặc một số dấu hiệu “rạn nứt” khác trong nền kinh tế có thể sẽ khiến Fed không tăng lãi suất thêm nữa, tạo tiền đề cho môi trường lãi suất thấp hơn.
Ông LaVorgna cho hay: “Bệnh nhân, tức là thị trường tài chính, đang không thực sự khoẻ mạnh. Như tôi đã nhiều lần nêu ý kiến, Fed có thể đã đi quá xa, quá nhanh trong thời gian quá dài. Nhưng cuối cùng họ sẽ phải ‘quay đầu’.”
Tham khảo CNBC
Nhịp sống thị trường