Môi trường kinh doanh chuyển biến tích cực nhưng chưa đồng đều
Kết quả nhiều cuộc điều tra mà VCCI tiến hành trong năm 2019 cho thấy, môi trường kinh doanh của Việt Nam được các doanh nghiệp đánh giá là đang chuyển biến tích cực hơn, dù vậy chưa có sự đồng đều.
- 26-01-2020Diện mạo khác, đẳng cấp khác
- 25-01-2020Dự án tỷ đô “xông đất” cho dòng vốn FDI vào Việt Nam năm 2020
- 25-01-2020Năm 2019 từng đi ngược với xu hướng của khu vực, kinh tế vĩ mô 2020 sẽ diễn biến ra sao?
- 25-01-2020''Giấc mơ Việt Nam hùng cường và thịnh vượng sẽ thành hiện thực''
Trong thời gian qua, Chính phủ Việt Nam đã có nhiều nỗ lực quan trọng trong việc tạo lập một môi trường kinh doanh ổn định, vững chắc và khuyến khích tinh thần doanh nghiệp.
Qua nhiều kết quả điều tra doanh nghiệp mà Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) tiến hành trong năm 2019, môi trường kinh doanh của Việt Nam được các doanh nghiệp đánh giá là đang chuyển biến tích cực hơn, dù vậy chưa có sự đồng đều giữa các lĩnh vực.
Thực hiện nhiệm vụ Chính phủ giao, VCCI xây dựng một báo cáo ghi nhận đánh giá của cộng đồng doanh nghiệp về việc các bộ ngành, địa phương thực hiện nhiệm vụ Chính phủ giao trong các Nghị quyết 02 năm 2019 và Nghị quyết 35 năm 2016, với một số kết quả chính như:
Trong các lĩnh vực của Nghị quyết 02, thành lập doanh nghiệp và tiếp cận điện năng là hai lĩnh vực được doanh nghiệp ghi nhận có nhiều chuyển biến nhất, ngược lại lĩnh vực phá sản doanh nghiệp, bảo vệ nhà đầu tư và thủ tục xuất nhập khẩu được đánh giá ít chuyển biến.
Lĩnh vực đăng ký kinh doanh: theo điều tra doanh nghiệp, tỷ lệ doanh nghiệp đăng ký qua mạng, qua bưu điện hoặc qua trung tâm hành chính công tăng từ 12,5% lên 17,4%. Tuy nhiên, tỷ lệ doanh nghiệp đánh giá việc ứng dụng công nghệ thông tin tốt lại giảm từ 60% xuống còn 36%.
Lĩnh vực thuế: các thủ tục hành chính thuế có sự cải thiện, dễ thực hiện nhất là thủ tục nộp thuế, khó thực hiện nhất là thủ tục hoàn thuế và đề nghị miễn giảm thuế. Tỷ lệ doanh nghiệp khai thuế điện tử lên đến 98,4%. Tuy nhiên, hoạt động thanh kiểm tra thuế vẫn chưa được cải thiện nhiều, vẫn có 33% doanh nghiệp cho rằng cán bộ suy diễn bất lợi cho doanh nghiệp và 30% doanh nghiệp cho biết tồn tại chi phí không chính thức khi thanh kiểm tra thuế.
Lĩnh vực giấy phép xây dựng và giấy phép liên quan: các doanh nghiệp vẫn phải đi lại để nộp hồ sơ nhiều lần (trung bình 3 lần cho mỗi thủ tục). Các thủ tục về xây dựng và phòng cháy chữa cháy vẫn chưa được thực hiện liên thông. Tỷ lệ doanh nghiệp phải xin xác nhận phòng cháy chữa cháy lên đến 63% và có đến 30% doanh nghiệp cho rằng họ gặp khó khăn khi làm thủ tục.
Lĩnh vực tiếp cận tín dụng: tiếp cận vốn vẫn là khó khăn lớn thứ hai đối với các doanh nghiệp, cản trở lớn nhất là điều kiện vay vốn phải có tài sản thế chấp (86% doanh nghiệp đồng ý). 39% doanh nghiệp cho biết tình trạng bồi dưỡng cho cán bộ ngân hàng để vay được vốn là phổ biến.
Lĩnh vực đăng ký bất động sản và quản lý đất đai: các doanh nghiệp đánh giá thực tiễn làm thủ tục hành chính trong lĩnh vực đất đai được cải thiện tốt. Tuy nhiên, việc thiếu công khai, minh bạch của các cơ quan quản lý nhà nước về thông tin về đất đai đang trở thành vấn đề lớn đối với cộng đồng doanh nghiệp.
Cải cách tư pháp, giải quyết tranh chấp và phá sản: sau 5 năm giảm liên tục (từ 60% năm 2013 xuống 36% năm 2017) thì năm vừa qua, tỷ lệ doanh nghiệp sẵn sàng khởi kiện ra toà án khi có tranh chấp đã tăng trở lại, lên mức 45% năm 2018.
Chi phí tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp: nhìn chung, nội dung thành phần hồ sơ, tính hiệu quả khi giải quyết thủ tục hành chính của cán bộ nhà nước đều tăng. Tỷ lệ doanh nghiệp mất thời gian để tìm hiểu và thực hiện các quy định pháp luật cũng giảm. Tuy nhiên, tỷ lệ doanh nghiệp cho biết phải đi lại nhiều lần để làm thủ tục hành chính lại có xu hướng gia tăng.
Kiểm soát tham nhũng: các đánh giá của doanh nghiệp về mức độ phổ biến và giá trị của chi phí không chính thức đều có xu hướng giảm. Tuy nhiên, hiện tượng tham nhũng vặt khi làm thủ tục hành chính vẫn còn đáng quan ngại.
Hạ tầng và tiếp cận điện năng: nhìn chung, tỷ lệ doanh nghiệp hài lòng về cơ sở hạ tầng của Việt Nam tăng nhẹ và liên tục trong nhiều năm qua. Tuy nhiên, hạ tầng giao thông và khu công nghiệp vẫn được đánh giá là chưa đáp ứng được nhu cầu của một nửa số doanh nghiệp.
Điều kiện đầu tư kinh doanh: việc cắt giảm điều kiện đầu tư kinh doanh mang lại nhiều kết quả đáng ghi nhận khi tỷ lệ doanh nghiệp phải xin giấy phép kinh doanh có điều kiện giảm từ 58% xuống 48% và tỷ lệ doanh nghiệp gặp khó khăn khi xin giấy phép giảm từ 42% xuống 34%. Tuy nhiên, việc cắt giảm danh mục ngành nghề kinh doanh có điều kiện tại Phụ lục IV Luật Đầu tư và các điều kiện kinh doanh nằm ở cấp luật cần tiếp tục được thực hiện.
Kiểm tra chuyên ngành: hầu hết các bộ đều đã có biện pháp cắt giảm mặt hàng phải kiểm tra chuyên ngành và xác định đủ mã HS. Tuy nhiên, các yêu cầu của Chính phủ về áp dụng nguyên tắc quản lý rủi ro, chuyển từ kiểm tra tại cửa khẩu sang kiểm tra hàng hoá khi lưu thông vẫn chưa được thực hiện phổ biến. Vẫn có tình trạng mở rộng phạm vi, tăng nặng thủ tục kiểm tra chuyên ngành trong lĩnh vực an toàn lao động. Công tác chỉ định và công nhận kết quả đánh giá sự phù hợp của các tổ chức được cải thiện, nhưng vẫn còn một số trường hợp chậm chỉ định, chỉ định ít dẫn đến độc quyền, hoặc không công nhận kết quả kiểm định của đơn vị được cấp phép. Vẫn còn tình trạng hàng hoá không có quy chuẩn kỹ thuật mà vẫn thuộc diện kiểm tra.
Cổng một cửa quốc gia: số lượng thủ tục hành chính kết nối Cổng thông tin một cửa quốc gia tăng nhanh, nhưng hầu hết doanh nghiệp vẫn phải nộp kèm bản giấy chứ chưa thể tiến hành thủ tục điện tử toàn bộ. Hạ tầng công nghệ thông tin của Cổng một cửa quốc gia cũng cần được cải thiện thực chất hơn khi có đến 40% các doanh nghiệp cho biết hệ thống hay báo lỗi, khó truy cập, tốc độ tải chậm, thường xuyên bị nghẽn mạng, bị từ chối truy cập và chỉ tương thích với một số trình duyệt, máy tính nhất định.
Cổng dịch vụ công trực tuyến của các bộ ngành, địa phương: hầu hết các bộ ngành, tỉnh thành đều đã có Cổng dịch vụ công trực tuyến cho phép cung cấp nhiều dịch vụ cấp độ 3, cấp độ 4. Tuy nhiên, chỉ một số ít Cổng đã hoạt động mang lại hiệu quả. Đa số các Cổng có tỷ lệ hồ sơ nộp trực tuyến rất thấp, chỉ một vài hồ sơ hoặc không đến 1% trên tổng số hồ sơ tiếp nhận. Có tình trạng một số cơ quan từ chối tiếp nhận hồ sơ giấy để ép doanh nghiệp và người dân phải nộp hồ sơ điện tử.
Thanh toán điện tử: các chính sách tạo điều kiện cho thanh toán điện tử đang được xây dựng, triển khai nhưng vẫn chậm so với kế hoạch.
Mục tiêu 1 triệu doanh nghiệp đến năm 2020: nếu giữ nguyên tốc độ tăng doanh nghiệp như trong 3 năm qua thì đến hết năm 2020 cả nước sẽ có khoảng 984 nghìn doanh nghiệp. Do đó, để đạt được mục tiêu 1 triệu doanh nghiệp thì các biện pháp cải cách phải được duy trì và đẩy mạnh hơn nữa trong khoảng thời gian còn lại.
Sự ổn định, nhất quán, dễ dự báo của chính sách: thực tế đáng lo ngại là tỷ lệ doanh nghiệp cho biết họ có thể dự đoán được thay đổi nội dung chính sách và thực thi chính sách giảm liên tục trong 5 năm qua. Tỷ lệ doanh nghiệp cho biết họ không bao giờ hoặc hiếm khi dự đoán được thay đổi chính sách tăng từ 42% trong năm 2014 lên 67% trong năm 2018.
Nguyên tắc cạnh tranh bình đẳng: sự phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp trong nước và nước ngoài, doanh nghiệp dân doanh và doanh nghiệp nhà nước có xu hướng giảm trên tất cả các lĩnh vực, trừ phân bổ nguồn lực đất đai. Tuy nhiên, tình trạng ưu ái doanh nghiệp sân sau vẫn rất nghiêm trọng.
Tổ chức đối thoại, giải quyết vướng mắc cho doanh nghiệp: tỷ lệ doanh nghiệp hài lòng về hoạt động tổ chức đối thoại, giải quyết vướng mắc cho doanh nghiệp có tăng nhưng ở mức rất khiêm tốn.
Công tác thanh kiểm tra: tỷ lệ doanh nghiệp bị thanh kiểm tra từ 2 lần trở lên trong năm giảm mạnh từ mức 40% xuống mức 19%. Tỷ lệ doanh nghiệp cho biết nội dung thanh kiểm tra có trùng lặp cũng giảm từ 14% xuống còn 11%.
Như vậy, các bộ ngành và địa phương tiếp tục cần có những cải cách thực chất và đồng đều hơn, nhằm tạo lập được môi trường kinh doanh thuận lợi cho cộng đồng kinh doanh. Dưới đây là một số kiến nghị nhằm thúc đẩy cải thiện môi trường kinh doanh và hỗ trợ doanh nghiệp:
1. Khởi sự kinh doanh
Các cơ quan nhà nước cần tiếp tục đẩy mạnh việc đơn giản hoá các thủ tục hậu đăng ký doanh nghiệp như khai báo lao động, đăng ký bảo hiểm xã hội, mua hoá đơn, mở tài khoản ngân hàng, nộp lệ phí môn bài. Biện pháp đơn giản hoá phù hợp nhất vẫn là liên thông hoặc kết hợp các thủ tục hành chính để các doanh nghiệp có thể làm nhiều thủ tục cùng một lúc. Ngoài ra, có thể bãi bỏ một số thủ tục không cần thiết như lệ phí môn bài, con dấu doanh nghiệp.
2. Nộp thuế
Trong lĩnh vực thuế, các biện pháp cải cách cần tập trung vào một số vấn đề như (1) đơn giản hoá quy định về thủ tục mua hoá đơn, tự in hoá đơn hoặc sử dụng hoá đơn điện tử; (2) cải thiện việc thực hiện thủ tục hoàn thuế, xin miễn giảm thuế và xin xác nhận nghĩa vụ thuế; (3) các quy định chính sách thuế cần rõ ràng để tránh xung đột giữa cơ quan thuế và doanh nghiệp khi xác định nghĩa vụ thuế. Ngoài ra, ngành thuế nên đẩy nhanh việc thực hiện các hoạt động hỗ trợ người nộp thuế, đặc biệt là dành cho các cá nhân kinh doanh, doanh nghiệp siêu nhỏ.
3. Giấy phép xây dựng và giấy phép liên quan
Việc liên thông, khắc phục chồng chéo các thủ tục hành chính của một dự án đầu tư xây dựng hiện nay cần là trọng tâm chính sách trong thời gian tới. Các thủ tục trong lĩnh vực đầu tư, đất đai, xây dựng, phòng cháy chữa cháy và bảo vệ môi trường cần được nghiên cứu để có thể thực hiện liên thông hoặc kết hợp nhằm rút ngắn thời gian, chi phí và rủi ro cho việc thực hiện các dự án. Ngoài ra, cần hướng đến việc xã hội hoá, cho phép nhiều chủ thể tham gia cung cấp các dịch vụ thẩm tra, thẩm định, đánh giá sự phù hợp trong lĩnh vực thiết kế, thi công xây dựng, phòng cháy chữa cháy, bảo vệ môi trường.
4. Quản lý đất đai và đăng ký bất động sản
Vấn đề lớn nhất trong lĩnh vực quản lý đất đai và đăng ký bất động sản hiện nay ở Việt Nam là khả năng kết nối dữ liệu và tiếp cận thông tin về đất đai. Các thông tin đất đai chi tiết đến từng thửa đất cả về thực trạng lẫn dự kiến quy hoạch cần được cho phép tiếp cận bởi những bên thứ ba, dù có thể có các điều kiện và chi phí đi kèm.
5. Cải cách tư pháp, giải quyết tranh chấp và phá sản
Các cơ quan nhà nước cần có chiến lược tổng thể về việc cải cách tư pháp nhằm hỗ trợ môi trường kinh doanh. Chiến lược này nên tập trung vào việc rút ngắn thời gian và tính tiên liệu được của hoạt động xét xử. Đối với hoạt động thi hành án dân sự, chiến lược này cần đưa ra các mục tiêu và giải pháp để rút ngắn thời gian và tăng tính hiệu quả khi thi hành án.
6. Hạ tầng và tiếp cận điện năng
Hạ tầng giao thông và khu công nghiệp vẫn cần được đầu tư mạnh mẽ để đáp ứng nhu cầu kinh doanh của các doanh nghiệp. Dù hạ tầng điện năng được đánh giá tốt trong vài năm qua nhưng nguy cơ thiếu điện đang quay trở lại. Do đó, các biện pháp thu hút đầu tư, đặc biệt là đầu tư tư nhân vào hạ tầng cần được chú trọng. Trong số đó, việc ban hành một khung khổ pháp lý thuận lợi và ổn định như Luật Đầu tư theo hình thức đối tác công tư được coi là giải pháp quan trọng.
7. Cải cách điều kiện đầu tư kinh doanh
Cơ chế kiểm soát điều kiện đầu tư kinh doanh cần được bảo đảm thống nhất giữa văn bản cấp luật và cấp nghị định. Các đạo luật cũng cần đáp ứng các tiêu chuẩn về tính minh bạch, tính khả thi, tính hợp lý của các điều kiện đầu tư kinh doanh, tránh việc quy định chung chung rồi giao Chính phủ quy định chi tiết. Danh mục ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện tại Phụ lục 4 Luật Đầu tư cũng cần được chú trọng nghiên cứu để tiếp tục cắt giảm, giúp đảm bảo quyền tự do kinh doanh, giảm số lượng doanh nghiệp phải xin giấy phép con.
8. Xuất nhập khẩu hàng hoá và kiểm tra chuyên ngành
Hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá và kiểm tra chuyên ngành vẫn còn rất nhiều dư địa để cải cách. Cổng một cửa quốc gia cần được nâng cấp để tăng tốc độ xử lý, tránh lỗi mạng, cần tiến tới việc điện tử hoá toàn bộ thủ tục, không còn phải dùng hồ sơ giấy. Việc chuyển sang hình thức quản lý theo rủi ro cần có bước đột phá mới dựa trên cơ sở dữ liệu và do máy tính đánh giá mức độ rủi ro theo tiêu chí định trước. Công tác đánh giá sự phù hợp cần được tiếp tục xã hội hoá và quản lý chặt chẽ thay vì việc phải quản lý bằng các thủ tục đăng ký kiểm tra và công bố hợp quy như hiện nay.
9. Kiểm soát tham nhũng và giảm chi phí kinh doanh cho doanh nghiệp
Vấn đề tham nhũng vặt khi làm thủ tục hành chính và thanh tra kiểm tra cần tiếp tục được chú trọng giải quyết. Các giải pháp cần tập trung thực hiện là (1) ứng dụng công nghệ thông tin để giám sát việc thực hiện thủ tục hành chính, (2) thanh kiểm tra công vụ thường xuyên, (3) gắn chặt trách nhiệm kiểm soát tham nhũng với công tác đánh giá cán bộ.
10. Cổng dịch vụ công
Các cơ quan nhà nước cần tiếp tục đẩy mạnh việc ứng dụng các cổng dịch vụ công khi làm các thủ tục hành chính. Giai đoạn xây dựng khung ban đầu đã qua, sắp tới, các bộ ngành địa phương cần tập trung vào việc nâng cao hiệu quả thực chất của các Cổng dịch vụ công, bảo đảm tỷ lệ nộp và xử lý dịch vụ trực tuyến tăng dần theo thời gian. Thêm vào đó, các cơ sở dữ liệu quốc gia cần sớm được chia sẻ, sử dụng chung để giảm chi phí và tạo sự thuận tiện khi làm thủ tục.
11. Tính ổn định của chính sách
Nguyên tắc không hồi tố bất lợi cho doanh nghiệp và người dân phải được bảo đảm khi xây dựng các quy định pháp luật. Việc lấy ý kiến các dự thảo văn bản pháp luật cần được thực hiện một cách thực chất và thường xuyên, không ban hành, thay đổi chính sách một cách đột ngột. Thêm vào đó, các loại giấy phép quyền kinh doanh cũng cần được kéo dài thời hạn hoặc không xác định thời hạn nhằm giúp ổn định môi trường đầu tư kinh doanh cho doanh nghiệp.
12. Cạnh tranh bình đẳng
Nguyên tắc cạnh tranh bình đẳng cần được cải thiện trong tiếp cận đất đai bằng cách hiện thực hoá chủ trương đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư sử dụng đất trong Luật Đầu tư. Công tác đấu thầu, đấu giá để phân bổ các nguồn lực như tài nguyên, hợp đồng, cơ hội kinh doanh cần được mở rộng hoặc tiếp tục được thực hiện một cách minh bạch hơn.
13. Minh bạch công tác thanh tra, kiểm tra
Công tác thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp cần chuyển dần sang nguyên tắc quản lý rủi ro, doanh nghiệp có rủi ro cao thì thanh kiểm tra nhiều hơn doanh nghiệp có rủi ro thấp. Việc lựa chọn các đối tượng thanh kiểm tra phải đảm bảo khách quan dựa trên các tiêu chí định trước và thông tin đầu vào chính xác, sát thực tế. Các kết quả thanh tra, kiểm tra cũng cần được công bố công khai.
Bizlive