Người lao động lưu ý: Cách tính thời gian để nhận trợ cấp thôi việc có thể bị thay đổi
Sau một thời gian thực hiện Nghị định số 05 của Chính phủ ra ngày 12/1/2015 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số nội dung của Bộ luật Lao động, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (LĐ-TB&XH) đã nhận ra một số bất cập và đề xuất sửa đổi. Một trong số đó là về thời gian tính trợ cấp thôi việc.
Theo quy định tại Nghị định số 05, thời gian làm việc để tính trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm là:
Tổng thời gian người lao động đã làm việc thực tế cho người sử dụng lao động – (Thời thời gian người lao động đã tham gia bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) theo quy định của pháp luật + Thời gian làm việc đã được người sử dụng lao động chi trả trợ cấp thôi việc)
Trong đó, thời gian người lao động làm việc thực tế cho người sử dụng lao động bao gồm: thời gian thử việc, học nghề, tập nghề để làm việc cho người sử dụng lao động; thời gian nghỉ hưởng chế độ theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội (BHXH).
Tuy nhiên, theo Bộ LĐ-TB&XH, quy định về cách tính thời gian người lao động làm việc thực tế cho người sử dụng lao động đang bộc lộ một số vướng mắc, khó khăn khi tính trợ cấp thôi việc cho người lao động.
Thứ nhất, thời gian người lao động thử việc, học nghề, tập nghề để làm việc cho người sử dụng lao động và thời gian người lao động nghỉ việc hưởng chế độ thai sản hoặc ốm đau từ 14 ngày làm việc trở lên không hưởng tiền lương tháng tại đơn vị mà hưởng trợ cấp BHXH thì người lao động không thuộc đối tượng tham gia đóng BHTN theo Điều 11 Nghị định số 28/2015/NĐ-CP ngày 12/3/2015 của Chính phủ.
Thứ hai, mặc dù thời gian người lao động nghỉ việc hưởng chế độ thai sản không thuộc đối tượng tham gia đóng BHTN nhưng thời gian này được tính là đã đóng BHXH, theo đó đối với giai đoạn trước khi Luật Việc làm có hiệu lực thi hành thì thời gian nghỉ thai sản được tính là thời gian đã tham gia BHTN theo Luật BHXH năm 2006.
Thứ ba, thời gian này thường ngắn (từ 1 - 6 tháng), khi tính trợ cấp thôi việc thường phải làm tròn thành nửa năm, gây vướng mắc cho người sử dụng lao động, đồng thời làm tăng chi phí của doanh nghiệp khi chi trả trợ cấp thôi việc cho người lao động, trong khi phần lớn thời gian người lao động thực tế làm việc đã được người sử dụng tham gia đóng BHTN.
Do đó, Bộ đang đề xuất sửa đổi thời gian tính trợ cấp thôi việc theo hướng thời gian làm việc thực tế cho người sử dụng lao động không bao gồm: thời gian thử việc, học nghề, tập nghề để làm việc cho người sử dụng lao động; thời gian nghỉ hưởng chế độ theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội.
Thông qua đó, tạo điều kiện cho doanh nghiệp khi giải quyết chế độ trợ cấp thôi việc cho người lao động.
Cụ thể, theo dự thảo, thời gian làm việc để tính trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm là:
Tổng thời gian người lao động đã làm việc thực tế cho người sử dụng lao động - (Thời gian người lao động đã tham gia BHTN theo quy định của pháp luật + thời gian làm việc đã được người sử dụng lao động chi trả trợ cấp thôi việc)
Trong đó, thời gian người lao động đã làm việc thực tế cho người sử dụng lao động bao gồm: thời gian người lao động đã làm việc cho người sử dụng lao động; thời gian được người sử dụng lao động cử đi học được hưởng nguyên lương; thời gian nghỉ hàng tuần theo Điều 110, nghỉ việc hưởng nguyên lương theo Điều 111, Điều 112, Điều 115 và Khoản 1 Điều 116 của Bộ luật Lao động; nghỉ để hoạt động công đoàn theo quy định của pháp luật về công đoàn; thời gian phải ngừng việc, nghỉ việc không do lỗi của người lao động; thời gian nghỉ vì bị tạm đình chỉ công việc và thời gian bị tạm giữ, tạm giam nhưng được trở lại làm việc do được cơ quan nhà nước có thẩm quyền kết luận không phạm tội.
Thời gian người lao động đã tham gia BHTN bao gồm: Thời gian người lao động đã đóng BHTN theo quy định của pháp luật và thời gian người lao động được người sử dụng lao động chi trả cùng lúc với kỳ trả lương một khoản tiền tương đương với mức đóng BHTN theo quy định của pháp luật.
Thời gian làm việc để tính trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm của người lao động được tính theo năm, trường hợp có tháng lẻ thì từ đủ 1 tháng đến dưới 6 tháng được tính bằng 1/2 năm; từ đủ 6 tháng trở lên được tính bằng 1 năm làm việc.