MỚI NHẤT!

Đọc nhanh >>

Những vướng mắc trong xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42 và đề xuất tháo gỡ

14-02-2019 - 11:33 AM | Tài chính - ngân hàng

Đến nay đã đi được hơn 1/3 chặng đường thực hiện Nghị quyết 42/2017/QH14 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu (Nghị quyết 42). Kết quả đã đạt được là khá rõ nét, nhưng theo các chuyên gia và những người thực hiện xử lý nợ trực tiếp, thì vẫn còn một số vướng mắc cần được tháo gỡ để Nghị quyết 42 phát huy hiệu quả cao hơn; qua đó mới đảm bảo đẩy nhanh tiến độ, nâng cao hiệu quả xử lý nợ xấu đáp ứng yêu cầu đề ra.

TS Cấn Văn Lực
TS Cấn Văn Lực
Chuyên gia tài chính ngân hàng
291 bài viết

Chúng tôi xin giới thiệu bài viết đóng góp ý kiến của TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia kinh tế tài chính, về các vướng mắc trong xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42 và đề xuất tháo gỡ. Bài viết có những góp ý, hỗ trợ từ Trung tâm xử lý nợ BIDV.

----------

Những kết quả tích cực về xử lý nợ xấu thời gian qua

Có thể nói việc xử lý nợ xấu thời gian qua đã có sự thay đổi về cả lượng và chất. Điều này thể hiện rõ nét trên 3 giác độ: (i) hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, (ii) sự nỗ lực vào cuộc của các bên liên quan, và (iii) một số kết quả cụ thể đã đạt được đến nay.

Thứ nhất, về hoàn thiện khuôn khổ pháp lý xử lý nợ xấu: năm 2017, Nghị quyết 42 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu được ban hành và hiệu lực từ 15/8/2017, đánh dấu bước tiến quan trọng trong hành lang pháp lý xử lý nợ xấu. Nghị quyết đã tháo gỡ nhiều vướng mắc trong xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng (TCTD); đó là khẳng định quyền thu giữ tài sản bảo đảm (TSBĐ) của TCTD và công ty mua bán tài sản của các TCTD (VAMC); cho phép mua bán nợ-xấu và TSBĐ theo giá thị trường; cho phép Tòa án áp dụng thủ tục để giải quyết tranh chấp liên quan đến TSĐB; mở rộng đối tượng mua-bán nợ xấu đối với VAMC; qui định về phương thức xử lý nợ xấu trong trường hợp TSBĐ là quyền sử dụng đất, bất động sản, bị kê biên; qui định thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý TSĐB; qui định nghĩa vụ thuế, phí khi chuyển nhượng TSBĐ; và phương thức phân bổ lãi dự thu, khoản chênh lệch khi bán nợ xấu của TCTD và VAMC…v.v.  

Bên cạnh đó, các văn bản hướng dẫn thực hiện của Chính Phủ, Ngân hàng Nhà nước (NHNN), Bộ Tư pháp, Tòa án Nhân dân tối cao…được ban hành đã giúp Nghị quyết đi vào thực tiễn. Tiêu biểu là Chỉ thị số 32/CT-TTg ngày 19/7/2017 của Thủ tướng Chính phủ; Chỉ thị số 06/CT-NHNN ngày 20/7/2017 của Thống đốc NHNN; Văn bản số 3022/TCTHADS-NV1 ngày 15/8/2017 của Tổng cục Thi hành án hướng dẫn một số nội dung liên quan đến triển khai Nghị quyết 42; Văn bản số 609/NHNN -TTGSNH ngày 24/1/2018 của NHNN về việc tăng cường xử lý nợ xấu, nhằm đẩy nhanh tiến độ triển khai thực hiện Nghị quyết 42; Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án Nhân dân tối cao (TANDTC) hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật trong giải quyết tranh chấp về xử lý nợ xấu, TSBĐ tại TAND….v.v. Với những văn bản này, hành lang pháp lý về xử lý nợ xấu của Việt Nam đã có bước tiến lớn so với trước kia và đã tương đối hoàn thiện, tiến gần hơn với các quy định chung thường thấy tại các quốc gia có hệ thống pháp lý phát triển trên thế giới.

Thứ hai, nhận thức và nỗ lực vào cuộc của các cấp, ngành thể hiện rõ nét hơn. Với những văn bản được ban hành trên đây, phần nào đã thể hiện được nỗ lực vào cuộc của các cấp, ngành và địa phương. Đặc biệt, nhận thức, thiện chí của bên vay trong việc giải quyết nợ xấu đã được tăng lên, góp phần đáng kể vào kết quả xử lý nợ xấu thời gian qua.  

Thứ ba, một số kết quả cụ thể đã đạt được. Một là, cách thức quản lý, theo dõi, đánh giá nợ xấu có bước tiến rõ nét làm động lực thúc đẩy xử lý nợ xấu theo hướng chủ động và thực chất hơn. Theo đó, tại Đề án 1058 về "Cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016–2020", mục tiêu đưa tỷ lệ nợ xấu gộp (gồm nợ xấu nội bảng, nợ bán cho VAMC chưa được xử lý và nợ xấu tiềm ẩn) về mức 3% đến năm 2020 đã được đưa ra thay cho chỉ tiêu tỷ lệ nợ xấu thường thấy trước đây. 

Việc đưa ra mục tiêu tỷ lệ nợ xấu gộp đã giúp cho công tác quản lý nợ xấu tại các cơ quan quản lý cũng như TCTD đi vào thực chất hơn, tạo động lực và cả áp lực đối với hệ thống các TCTD tích cực, chủ động hơn trong xử lý nợ xấu. Tính đến hết năm 2018, tỷ lệ nợ xấu nội bảng của các TCTD đã giảm xuống mức 1,89% (so với mức 1,99% cuối năm 2017 và 2,46% cuối năm 2016) và tỷ lệ nợ xấu gộp khoảng 6,67% tổng dư nợ, giảm mạnh so với mức 10,08% vào cuối năm 2016 và 7,36% cuối năm 2017. Trong đó, kết quả xử lý nợ xấu của VAMC cũng khá khả quan; tính đến hết tháng 8/2018, VAMC đã thu hồi gần 100.000 tỷ đồng trên 227.000 tỷ đồng nợ gốc đã mua. Đặc biệt là tác động của NQ 42 tương đối rõ nét. Theo số liệu mới nhất từ NHNN, tính từ giữa năm 2012 đến hết tháng 6/2018, toàn hệ thống đã xử lý được 785.930 tỷ đồng nợ xấu, riêng sau hơn một năm thực hiện Nghị quyết 42, toàn hệ thống đã xử lý được 138.290 tỷ đồng (tương đương tỷ lệ 17,5% của cả 6 năm qua); trong đó các TCTD đã xử lý được 58.800 tỷ đồng.

Với những bước tiến trong công tác xử lý nợ xấu thời gian qua, mục tiêu giảm tỷ lệ nợ xấu gộp về 3% đến cuối năm 2020 là khả thi.

Những vướng mắc trong xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42 và đề xuất tháo gỡ - Ảnh 1.

Một số vướng mắc cần tiếp tục tháo gỡ

Những kết quả xử lý nợ xấu thời gian qua là rất tích cực, nhưng vẫn còn một số vướng mắc cần tiếp tục tháo gỡ để Nghị quyết 42 phát huy hiệu quả cao hơn. Những vướng mắc đó tập trung vào 3 nhóm chính.

Những vướng mắc liên quan đến hướng dẫn triển khai Nghị quyết 42. Trước hết là quyền thu giữ TSBĐ của TCTD – một nội dung được xem là một trong những đột phá của Nghị quyết 42, nhưng việc áp dụng trong thực tế lại không hề đơn giản. Theo Nghị quyết 42, quyền thu giữ TSBĐ đi kèm với điều kiện hồ sơ thế chấp phải có thỏa thuận về điều khoản thu giữ TSBĐ; trong khi đó tính đến thời điểm Nghị quyết 42 có hiệu lực, nhiều hợp đồng thế chấp chưa có điều khoản này. Vì vậy, các TCTD cần đàm phán với bên vay để điều chỉnh hợp đồng. Ngoài ra, ngay cả với những khoản vay đáp ứng được điều kiện này, thì việc thực hiện quyền thu giữ TSBĐ của các TCTD vẫn cần đến sự hỗ trợ của cơ quan công an các cấp. Tuy nhiên, đến nay Bộ Công an vẫn chưa có văn bản hướng dẫn về cơ chế, cách thức thực hiện cưỡng chế đối với các trường hợp bên bảo đảm chống đối, không hợp tác. Do đó, việc thu giữ TSBĐ thành công hay không hiện nay phụ thuộc khá nhiều vào thiện chí của bên vay (bên bảo đảm).

Thứ hai, việc giải quyết tranh chấp theo thủ tục rút gọn rất hạn chế. Theo rà soát sơ bộ, đến nay vẫn chưa có vụ án nào được áp dụng trong thực tế theo hướng dẫn thủ tục rút gọn. Nguyên nhân trước hết là do sau gần một năm Nghị quyết 42 có hiệu lực, đến ngày 15/5/2018 Tòa án Nhân dân tối cao mới ban hành Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP (có hiệu lực từ ngày 1/7/2018) hướng dẫn áp dụng các quy định của Nghị quyết 42. Khi đã có hướng dẫn nêu trên, việc hoàn thiện các thủ tục theo yêu cầu của Tòa án lại khó khăn. Tiêu biểu như việc thực hiện quy định về xác nhận công nợ, tài liệu về nơi cư trú của người bị kiện (người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan). Khi xảy ra nợ xấu, đa phần khách hàng trốn tránh, không hợp tác với TCTD để phối hợp xử lý, nên việc xác nhận này rất khó thực hiện. Ngoài ra, tòa án cấp dưới chưa mạnh dạn triển khai thực hiện thủ tục rút gọn vì chưa có "tiền lệ", tâm lý "sợ sai sót" trong quá trình xét xử vẫn hiện hữu.

Thứ ba, vướng mắc trong thủ tục sang tên cho người mua TSBĐ. Theo quy định tại Nghị quyết 42, "Số tiền thu được từ xử lý TSBĐ của khoản nợ xấu, sau khi trừ chi phí bảo quản, thu giữ và chi phí xử lý TSBĐ được ưu tiên thanh toán cho nghĩa vụ nợ được bảo đảm cho TCTD… trước khi thực hiện nghĩa vụ thuế, nghĩa vụ khác không có bảo đảm…". Tuy nhiên, thực tế triển khai lại không hề đơn giản. Khi chưa nộp đủ các loại thuế như thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế khác của người phải thi hành án… thì cơ quan thuế sẽ không chuyển thông báo nộp thuế cho Văn phòng Đăng ký đất đai. Hệ quả là TCTD không thực hiện được thủ tục sang tên cho người mua TSBĐ.

Thứ tư, vướng mắc trong chuyển nhượng dự án bất động sản. Việc xử lý tài sản bảo đảm là dự án bất động sản theo Điều 10 Nghị quyết 42 gặp vướng mắc do ngoài việc tuân thủ theo quy định của pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm, TCTD và bên nhận chuyển nhượng còn phải tuân thủ theo quy định của pháp luật về đầu tư. Điều này dẫn đến thực trạng là sau khi TCTD đưa tài sản bảo đảm là dự án bất động sản ra bán đấu giá công khai và xác định được người trúng đấu giá, nhưng lại không thực hiện được thủ tục đăng ký cấp Giấy chứng nhận đầu tư cho người nhận chuyển nhượng, với lý do là chưa đáp ứng được tiêu chuẩn, năng lực theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền.

Thứ năm, vướng mắc do giới hạn phạm vi lựa chọn tổ chức thẩm định giá. Khi xử lý tranh chấp đến giai đoạn cưỡng chế kê biên, bán đấu giá tài sản; hầu hết các bên không thỏa thuận được về giá TSBĐ cũng như kết quả thẩm định giá. Khi đó, theo Điều 98 Luật thi hành án dân sự (2014), chấp hành viên sẽ ký hợp đồng dịch vụ với tổ chức thẩm định giá. Việc giới hạn tổ chức thẩm định giá phải nằm trên địa bàn tỉnh, thành phố đã làm hạn chế cơ hội lựa chọn được tổ chức định giá có đủ uy tín, năng lực để thực hiện định giá tài sản. Rất nhiều địa phương chỉ có 1-2 tổ chức thẩm định giá hoặc tổ chức thẩm định giá trên địa bàn có năng lực, uy tín chưa tốt, thiếu tin tưởng về chất lượng thẩm định giá. Thậm chí có khả năng xảy ra tình trạng thiếu minh bạch, câu kết giữa chấp hành viên – thẩm định giá viên – đấu giá viên; điều này có thểgây thiệt hại cho TCTD với việc định giá quá thấp để tẩu tán tài sản, định giá quá cao nên không thể xử lý được tài sản, dẫn đến tình trạng xử lý kéo dài, gây lãng phí, tốn kém do tài sản xuống cấp, chi phí bảo quản…v.v.

Thứ sáu, vướng mắc trong bán đấu giá TSBĐ thi hành án. Theo quy định tại Điều 102 khoản 2 Luật thi hành án dân sự (2014); người mua được tài sản bán đấu giá, Chấp hành viên có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp về kết quả bán đấu giá tài sản nếu có căn cứ chứng minh có vi phạm trong quá trình bán đấu giá tài sản. Quy định này đã tước đi hoặc hạn chế quyền của TCTD trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trong trường hợp có vi phạm pháp luật trong quá trình đấu giá tài sản.

Những vướng mắc trong xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42 và đề xuất tháo gỡ - Ảnh 2.

Trong số các vướng mắc khi thực hiện Nghị quyết 42 có vấn đề liên quan đấu giá tài sản (ảnh minh họa)

Những vướng mắc liên quan đến sự thiếu đồng bộ, nhất quán và quyết liệt của các bên tham gia xử lý nợ xấu

Thứ nhất, mua-bán nợ xấu theo giá thị trường còn chậm. Theo quy định tại Khoản 3 Điều 6 (Nghị quyết 42), tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu được mua khoản nợ xấu với giá bằng giá trị định giá của tổ chức định giá độc lập; sau đó xử lý, thu hồi nợ và phân chia với TCTD số tiền chênh lệch giữa số tiền thu nợ được và giá mua nợ. Tuy nhiên, thực tế triển khai còn rất khó khăn, trong đó nguyên nhân một phần là do VAMC chưa được cấp đủ vốn; một phần nữa là VAMC chưa mạnh dạn thúc đẩy phương thức mua nợ này do cơ sở pháp lý bảo vệ cán bộ trong xử lý nợ xấu chưa có tiền lệ; trong khi đó theo quy định đây là phương thức mua-bán nợ duy nhất mà VAMC được phép thực hiện, điều này làm cho hoạt động mua-bán nợ còn chậm.

Thứ hai, sự vào cuộc của chính quyền địa phương còn yếu, chưa đồng đều, chưa quyết liệt. Mặc dù Nghị quyết 42 đã tạo sức ảnh hưởng và lan truyền mạnh mẽ đến nhận thức của xã hội về xử lý nợ xấu, nhưng việc chỉ đạo, vào cuộc của Chính quyền địa phương các cấp (đặc biệt là cấp phường, xã) trên thực tế còn rất chậm, dẫn đến khó khăn cho các TCTD khi thực thi các biện pháp xử lý nợ xấu.

Thứ ba, thời gian giải quyết vụ án thường kéo dài. Theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, thời hạn chuẩn bị xét xử của một vụ án dân sự là từ 4-6 tháng, tuy nhiên thực tế thì quá trình giải quyết tại Tòa án thường mất rất nhiều thời gian, chi phí. Nhiều vụ việc Tòa án đã nhận được Đơn khởi kiện hợp lệ nhưng không có thông báo hay phản hồi cho các TCTD. Ngoài ra, việc cơ quan Tòa Án, Thi hành án thường không nhận đơn từ thời gian tháng 6 đến tháng 9 do thời điểm 30/9 hàng năm là lúc tổng kết số án tồn của các đơn vị. Thực tế này khiến TCTD phải thêm thời gian chờ đợi khi khởi kiện và thi hành án.

Thứ tư, thứ tự ưu tiên xử lý trong vụ việc có nhiều tài sản thi hành án được hiểu và áp dụng khác nhau. Về nguyên tắc, các hợp đồng bảo đảm có hiệu lực pháp lý như nhau khi phải xử lý để thực hiện nghĩa vụ của các bên. Do đó, các TSBĐ cho nghĩa vụ của người phải thi hành án cần được xử lý đồng thời khi người được thi hành án yêu cầu. Tuy nhiên, một số cơ quan thi hành án có quan điểm phải xử lý xong tài sản của khách hàng vay rồi mới tiến hành xử lý tài sản thi hành án của bên thứ ba hoặc có văn bản đề nghị Tòa án xác định thứ tự xử lý tài sản trong bản án. Cách làm này khiến quá trình thi hành án và xử lý nợ xấu bị kéo dài.

Thứ năm, việc thực hiện theo phán quyết của Tòa án còn chậm do cách hiểu khác nhau. Vẫn còn trường hợp quan điểm của Cơ quan Thi hành án theo hướng chỉ thụ lý và tổ chức thi hành phần bên vay phải trả nợ, mà không thi hành cả phần xử lý tài sản thế chấp, do không đúng nội dung của Bản án đã được Toà án tuyên bố trước - đó là TCTD được quyền phát mại để thu hồi nợ nếu khách hàng không thực hiện nghĩa vụ. Cách hiểu khác nhau này khiến việc thi hành án đối với nợ xấu chậm và không nhất quán.

Nhóm vướng mắc liên quan đến thị trường hỗ trợ xử lý nợ xấu

Chúng ta thiếu vắng một thị trường mua-bán nợ thực sự. Điều 5 tại Nghị quyết 42 quy định TCTD được bán các khoản nợ xấu và TSBĐ liên quan một cách công khai, minh bạch, theo quy định của pháp luật và giá bán phù hợp với giá thị trường, cao hơn hoặc thấp hơn dư nợ gốc của khoản nợ. Tuy nhiên, việc bán nợ vẫn tương đối hạn chế do các TCTD vẫn chủ yếu chỉ bán nợ cho VAMC và DATC, trong khi đó một thị trường mua-bán nợ đúng nghĩa (gồm cả mua-bán nợ bình thường) và hoạt động hiệu quả chưa được hình thành. Tình trạng này chủ yếu là do 4 nguyên nhân sau.

Thứ nhất, thiếu quy định, hướng dẫn về cơ sở xác định giá trị khoản nợ làm căn cứ để bên mua-bán nợ tham khảo và thực hiện. Việc thẩm định giá khoản nợ đang được các tổ chức thẩm định giá thực hiện một cách tự phát dựa trên các quy định của pháp luật có tính chất tương đồng hay có liên quan; do chưa có quy chuẩn thống nhất. Điều này dẫn đến tình trạng bên bán không dám quyết định do lo ngại mức giá bán đưa ra mang tính chủ quan và có thể thấp hơn nhiều so với giá trị khoản nợ.

Những vướng mắc trong xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42 và đề xuất tháo gỡ - Ảnh 3.

Theo chuyên gia, việc thẩm định giá khoản nợ đang được các tổ chức thẩm định giá thực hiện một cách tự phát dựa trên các quy định của pháp luật có tính chất tương đồng hay có liên quan; do chưa có quy chuẩn thống nhất.

Thứ hai, thiếu lực lượng tham gia thị trường mua-bán nợ. Việc mua-bán nợ giữa các TCTD với VAMC và DATC vẫn diễn ra lâu nay, nhưng rõ ràng là chưa có hoạt động mua-bán nợ giữa các TCTD với nhau và nhất là chưa có tham gia của các nhà đầu tư tư nhân (kể cả các nhà đầu tư nước ngoài). Một phần là do điều kiện kinh doanh dịch vụ mua-bán nợ khá cao (chẳng hạn như yêu cầu về vốn điều lệ - tối thiểu 100 tỷ đồng và tối thiểu 500 tỷ đồng đối với doanh nghiệp thành lập sàn giao dịch nợ, yêu cầu về quản lý nội bộ…v.v.). Về khuôn khổ pháp lý, đã có Nghị định 69/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 về điều kiện kinh doanh dịch vụ mua-bán nợ. Tuy nhiên, hướng dẫn triển khai Nghị định này rất sơ sài và chưa có đầu mối tạo lập, phát triển thị trường giao dịch mua bán nợ. Đồng thời, thông tin liên quan đến khách hàng (bên nợ), đến khoản nợ còn thiếu công khai, minh bạch; gây khó khăn cho các bên có nhu cầu mua nợ trong việc tiếp cận, tìm hiểu để đánh giá và mua nợ.

Thứ ba, thiếu các nhà môi giới chuyên nghiệp. Đối với bất kỳ thị trường nào cũng vậy, vai trò của các nhà môi giới chuyên nghiệp là rất quan trọng. Đây là đội ngũ nắm giữ thông tin cần thiết liên quan đến hàng hóa của thị trường, kết nối bên mua-bán gặp nhau, thực hiện thủ tục mua-bán một cách chuyên nghiệp, đảm bảo an toàn về mặt pháp lý và kỹ thuật cho giao dịch. Thị trường mua-bán nợ tại Việt Nam hiện đang ở giai đoạn rất sơ khai và thiếu đội ngũ môi giới này.

Thứ tư, thiếu thị trường thứ cấp và phái sinh đối với các khoản nợ. Sau khi mua các khoản nợ, bên mua nợ phải thực hiện quản lý các khoản nợ đó, trong đó có quản lý, khai thác và vận hành tài sản bảo đảm cũng như rủi ro thanh khoản của các tài sản này. Trường hợp bên mua nợ muốn bán, chuyển nhượng hoặc ủy thác quản lý các khoản nợ này đều rất khó khan vì chưa có thị trường thứ cấp. Tương tự, các hoạt động phái sinh như nghiệp vụ chứng khoán hóa tài sản, chứng khoán hóa nợ thường và nợ xấu …đều chưa có, dẫn đến thanh khoản của các khoản nợ rất thấp, làm giảm mức độ hấp dẫn, tăng chi phí quản lý, chi phí chuyển nhượng đối với các khoản nợ đã mua.

 Lời kết

Những vướng mắc nêu trên chỉ những vấn đề nổi cộm nhất trong quá trình xử lý nợ xấu của các TCTD nói chung và triển khai Nghị quyết 42 nói riêng. Theo đó, để quá trình xử lý nợ xấu và thực hiện Nghị quyết 42 mang lại hiệu quả cao hơn, đáp ứng yêu cầu đề ra, chính quyền địa phương và các cơ quan quản lý cần nhanh chóng, chủ động, tích cực tháo gỡ các vướng mắc nêu trên. Đồng thời, cần nghiêm túc thực hiện đánh giá kết quả thực hiện giữa kỳ vào thời điểm cuối năm 2019. Hy vọng, Nghị quyết 42 sẽ thực sự đi vào cuộc sống và tạo tiền đề hình thành hành lang pháp lý xử lý nợ xấu lâu dài tại Việt Nam.

TS. Cấn Văn Lực (chuyên gia kinh tế trưởng BIDV)

Trí Thức Trẻ

CÙNG CHUYÊN MỤC

XEM
Trở lên trên