“Nỗ lực tuyệt vời” trước loạt khó khăn, xuất khẩu dệt may bật lên và lấy lại tăng trưởng
Vượt loạt thử thách lớn, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam đang từng bước ổn định và khôi phục hoạt động sản xuất, nhưng vẫn gặp nhiều khó khăn khi chi phí logistics tiếp tục tăng cao...
- 08-12-2021Ngành dệt may 'cán đích' với doanh thu xuất khẩu đạt 39 tỷ USD
- 04-12-2021“Bài toán” nguyên, phụ liệu cho ngành dệt may
- 30-11-2021Ngành dệt may có thể khởi sắc trong năm 2022?
Song, ngành dệt may, với những nỗ lực vượt bậc, tổng kim ngạch xuất khẩu dự tính vẫn sẽ đạt 39 tỷ USD nay, lấy lại tăng trưởng sau năm suy giảm 2020 (khoảng 35 tỷ USD và giảm 9% so với năm 2019).
Thông tin trên được Hiệp hội Dêt may Việt Nam (VITAS) đưa ra tại hội thảo "Giải pháp tiết kiệm chi phí logistics cho ngành dệt may" diễn ra cuối tuần qua.
Phát biểu khai mạc, ông Trương Tân Lộc, Giám đốc Marketing Tổng công ty Tân cảng Sài Gòn (TCSG) cho biết các vấn đề của ngành hàng hải trên thế giới và việc thiếu hụt container (cont) rỗng, và nhất là tình trạng kẹt cảng trên toàn cầu, đã mang đến nhiều thách thức cho doanh nghiệp trong việc đảm bảo tiến độ các đơn hàng, lưu thông hàng hóa phục vụ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu (XNK) trong đó có doanh nghiệp dệt may.
Từ ngày 1/10 đến nay, các hoạt động của doanh nghiệp dệt may cơ bản đã khôi phục và giữ được tiến độ, kim ngạch XNK khôi phục đáng kể trong hai tháng vừa qua. Năm 2021 là năm khó khăn của ngành dệt may nhưng với những nỗ lực vượt bậc kim ngạch xuất khẩu của ngành hàng dự đoán sẽ đạt là 39 tỷ USD.
Bà Nguyễn Thị Tuyết Mai, Phó tổng thư ký VITAS
Vượt ba thách thức lớn
Theo bà Nguyễn Thị Tuyết Mai, Phó tổng thư ký VITAS, từ tháng 6 mà cao điểm là vào quý 3/2021 các doanh nghiệp dệt may phải trải qua ba thách thức lớn.
Thứ nhất là phải duy trì chuỗi cung ứng trong giai đoạn cao điểm của đạt dịch COVID-19 lần thứ tư.
Trước đây do thiếu vaccine nên Chính phủ áp dụng chính sách chống dịch "zero covid" bằng các Chỉ thị 15 và 16, khiến nhiều doanh nghiệp phía Nam (chiếm hơn 50% năng lực sản xuất toàn ngành) phải ngừng sản xuất hoặc chỉ sản xuất cầm chừng theo phương án “3 tại chỗ” hay “1 cung đường 2 điểm đến”.
Do vậy doanh nghiệp không thực hiện được đơn hàng và phải giao hàng chậm hoặc phải giao hàng bằng máy bay hoặc bị khách hàng hủy đơn hàng khi bị đứt gãy chuỗi cung ứng. Có một số khách hàng không chờ đợi lâu đã chuyển đơn hàng đi nơi khác thậm chí có một số đơn vị bị mất cả đơn hàng gia công.
Trong tình hình này việc duy trì chuỗi cung ứng logistics là một trong những vấn đề cực kỳ quan trọng.
Do nhân viên ngành logistic và các nhân viên làm thủ tục XNK cũng phải làm việc “3 tại chỗ” nên thiếu dịch vụ bốc xếp ngoài cảng làm chậm trễ việc xuất nhập hàng hóa,… đã đẩy chi phí tăng cao và cước tàu tăng phi mã gấp 2 đến 3 lần; và tới nay tình trạng thiếu cont rỗng vẫn còn, cước tàu biển còn tăng cao hơn so với trước đây nhưng các tàu vẫn thường xuyên delay.
Do thường xuyên bị trễ và do sự ép buộc của các nhãn hàng nên các doanh nghiệp phải vận chuyển bằng đường hàng không tạo nên gánh nặng chi phí cho doanh nghiệp.
Một doanh nghiệp nhỏ làm hàng đi Nhật cho biết, do quá trễ hạn nên họ phải thay đổi phương thức vận chuyển từ tàu sang hàng không, trong 3 tháng 9, 10 và 11 chi phí cho việc vận chuyển bằng đương hàng không của công ty đã lên đến 400.000 USD; với công ty lớn trong 2 tháng 10 và 11 chi phí để vận chuyển bằng đường hàng không đã lên đến 1,8 triệu USD.
Chi phí logistic tăng rất khủng do thiếu sự chủ động và vì những hãng tàu đa phần là của nước ngoài. Đặc biệt khi tàu về đến cảng Trung Quốc thì nước này đã giữ lại các cont rỗng khiến doanh nghiệp cực kỳ bị động và rất khó khăn.
Thứ hai là thách thức về lao động. Khi dịch bùng phát các tỉnh phía Nam đặc biệt là ở TPHCM phần lớn doanh nghiệp dệt may phải đóng cửa nên giảm khoảng 60 đến 70% lao động.
Vì người lao động khi đó chưa được chích ngừa khi bị nhiễm bắt buộc đi cách ly, hoặc có một số lao động sợ lây nhiễm không đi làm, số khác bỏ về quê dẫn đến nguy cơ thiếu lao động khi doanh nghiệp sản xuất trở lại.
Rất may sau ngày 1/10, khi doanh nghiệp hoạt động trở lại thì số lao động dần khôi phục và các doanh nghiệp hội viên của VITAS đã khôi phục được từ 85 đến 90% lao động.
Thách thức thứ ba đối với các doanh nghiệp dệt may, đặc biệt đối với các doanh nghiệp phía Nam, khi sức khỏe tài chính đang trong trạng thái rất mong manh cộng với nguy cơ đứt thanh khoản do không thực hiện được những dơn hàng đã ký và bị phạt hợp đồng.
Sau ngày 1/10, sản xuất dần trở lại bình thường doanh nghiệp đã xây dựng phương án sản xuất an toàn và tăng tốc để thực hiện kế hoạch 2021, nhờ vậy sản xuất kinh doanh trong năm 2021 có nhiều biến đổi rất tích cực.
“Trong năm 2019, nếu kim ngạch xuất khẩu dệt may đạt gần 38,9 tỷ USD. Năm 2020 dịch bệnh bùng phát đã kéo kim ngạch xuất khẩu xuống còn 35 tỷ USD, và với tình hình dịch bệnh diễn ra phức tạp ở phía Nam trong năm 2021, VITAS nghĩ cũng sẽ khó khăn và khó lòng đạt được giá trị xuất khẩu tương đương năm 2019.
Tuy nhiên, tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may trong 11 tháng đầu năm ước đạt 35,68 tỷ USD, tăng 12,7% so với cùng kỳ năm 2020. Riêng tháng 11/2021, xuất khẩu dệt may ước đạt 3,37 tỷ USD tăng gần 2,5 so với tháng 10/2021. Dự báo, tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may năm 2021 sẽ đạt 39 tỷ USD.
Đây là một nỗ lực rất tuyệt vời của ngành và chúng tôi trân trọng sự đóng góp đó của các doanh nghiệp trong bối cảnh tốc độ phục hồi kinh tế thế giới có xu hướng giảm. VITAS cũng dự báo nếu tình hình sản xuất kinh doanh trở lại bình thường thì dệt may sẽ phấn đấu đạt từ 42 - 43 tỷ USD trong năm 2022”, Phó tổng thư ký VITAS nhận định.
Khảo sát 50 doanh nghiệp dệt may lớn thì hầu hết đều cho biết khó khăn là cước tàu tăng và container rỗng khan hiếm (Ảnh minh họa)
Kỳ vọng logistics hiệu quả trở lại
Trong dự tính trên, tỷ trọng xuất khẩu hàng dệt may vào Mỹ vẫn cao nhất khi đạt gần 41%, và thị trường khối CPTPP là 13%, Trung Quốc 11% và EU khoảng 9,5%.
Phó tổng thư ký VITAS cho biết thêm, tỷ trọng hàng dệt may xuất khẩu vào Mỹ rất lớn cho nên nếu tình hình logistics không được cải thiện hoặc chi phí logistics không giảm thì doanh nghiệp sẽ thật sự rất khó khăn và không được hưởng lợi từ các FTA đã ký như EVFTA, CPTPP.
Đây là một vấn đề rất nhức nhối mà VITAS rất muốn làm bằng mọi cách để phối hợp cùng với các doanh nghiệp logistics và đặc biệt là Tân cảng Sài Gòn (TCSG) làm thế nào có thể hỗ trợ doanh doanh nghiệp vượt qua được khó khăn này.
Bà Phạm Thị Mỹ Lệ, Phó giám đốc Marketing TCSG cho biết, thời gian TCSG luôn tập trung xây dựng những chính sách hỗ trợ sao cho các doanh nghiệp và liên tục cập nhật thông tin cho các hãng tàu và các doanh nghiệp trong đó có doanh nghiệp dệt may về tình hình hoạt động của cảng và tạo điều kiện thuận lợi cho các hãng tàu và các doanh nghiệp để họ có sắp xếp kế hoạch sản xuất xuất khẩu phù hợp.
Sau khi khảo sát với 50 doanh nghiệp dệt may lớn thì hầu hết đều cho biết khó khăn là cước tàu tăng và container rỗng khan hiếm.
Từ những thực trạng và khó khăn của doanh nghiệp dệt may TCSG đã có giải pháp tập trung, như hàng hóa tăng trưởng dệt may ở Mỹ và châu Âu thì TCSG có các cảng ở khu vực Cái Mép. Như vậy hàng dệt may nếu ở TP.HCM cũng được chuyển ra khu vực Cái Mép để lên tàu đi trực tiếp thị trường Âu, Mỹ.
Cơ sở ICD Tân Cảng Long Bình và Nhơn Trạch sẽ thể hiện cụ thể cho giải pháp kết nối này của TCSG, với giải pháp trực tiếp tại Long Bình. Hiện TCSG đang có các hãng tàu Havas Lo, Cosco và Yang Ming đã để cont rỗng ở đây.
Tuy nhiên thời gian vừa qua do lượng rỗng khan hiếm nên TCSG cũng như các hãng tàu đã đưa hàng về ICD Long Bình tương đối ít, tính đến thời điểm hiện tại tại hãng tàu Cosco và hãng tàu Yang Ming đã chuyển cont rỗng đến đây.
Với xu hướng các doanh nghiệp dệt may phải kết nối trực tiếp với hàng đi châu Mỹ, châu Âu qua cảng Cái Mép như vậy, ICD Long Bình và ICD Nhơn Trạch là một trong những giải pháp TCSG xây dựng giúp giảm chi phí của doanh nghiệp.
BizLive