MỚI NHẤT!

Đọc nhanh >>

Quốc hội chấp thuận cho Chính phủ xóa 16.000 tỷ đồng tiền nợ thuế

Chiều 26/11, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về khoanh tiền nợ thuế, xóa tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp đối với người nộp thuế không còn khả năng nộp NSNN với số tiền có thể được xóa là hơn 16.000 tỷ đồng.

Theo báo cáo, khoảng 43.000 tỷ đồng trong số 88.253 tỉ đồng tiền nợ thuế được đưa vào diện không thể thu hồi. Chính phủ đề nghị được khoanh và không hồi tố với các khoản nợ phát sinh trước ngày 1/7/2020 và xoá số nợ thuế gần 16.400 tỷ đồng tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp. Trong các phiên thảo luận trước đó, nhiều ĐBQH gọi đây là khoản nợ ảo, không chỉ không có khả năng thu hồi mà còn gây nhiều gây khó khăn cho ngành thuế và kéo theo những chi phí liên quan đến hoạt động theo dõi chậm nộp.

Trong phiên làm việc chiều 26/11, với 441/458 số đại biểu có mặt tán thành, Quốc hội đã chính thức thông qua Nghị quyết của Quốc hội về khoanh tiền nợ thuế, xóa tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp đối với người nộp thuế không còn khả năng nộp NSNN.

Cụ thể, Nghị quyết này quy định về khoanh nợ tiền thuế, xóa nợ tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp đối với người nộp thuế không còn khả năng nộp ngân sách nhà nước, bao gồm tiền thuế, tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp, tiền phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế, hải quan phát sinh trước ngày Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 có hiệu lực thi hành.

Đối tượng được xử lý nợ là người nộp thuế nợ tiền thuế, nợ tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp và thuộc một trong các trường hợp dưới đây, phát sinh trước ngày 1/7/2020 mà không có khả năng nộp ngân sách nhà nước, bao gồm người nộp thuế đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự, các DN đã không còn hoạt động sản xuất, kinh doanh, đã giải thể, phá sản, đã thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, vì vậy cũng không thể thu cho ngân sách nhà nước.

Tuy nhiên, Nghị quyết này chỉ khoanh tiền nợ thuế, xóa nợ tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp, chưa xử lý tiền nợ thuế gốc, theo đó điều kiện tiên quyết để được xử lý nợ là người nộp thuế không còn khả năng nộp NSNN. Đối với tiền nợ thuế gốc sẽ tiếp tục theo dõi và được xử lý theo quy định Luật Quản lý thuế số 38.

"Theo tổng hợp Phiếu xin ý kiến các vị ĐBQH, đa số ý kiến (418/459 ý kiến, bằng 91%) nhất trí việc khoanh tiền nợ thuế, xóa tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp đối với người nộp thuế không còn khả năng nộp NSNN như dự thảo Nghị quyết kèm theo Tờ trình số 501/TTr-CP ngày 16/10/2019 của Chính phủ và nhất trí (408/459 ý kiến, bằng 89%) thực hiện theo trình tự xem xét, thông qua tại một kỳ họp (kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIV)", Ủy ban Thường vụ Quốc hội báo cáo.

Tuy nhiên, việc xử lý nợ phải bảo đảm công khai, minh bạch; phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý nghiêm việc lợi dụng chính sách để trục lợi hoặc cố tình chây ỳ, nợ thuế. Trong trường hợp đã xóa nợ mà phát hiện người nộp thuế quay lại sản xuất, kinh doanh hoặc thành lập cơ sở sản xuất, kinh doanh mới thì phải hủy quyết định khoanh nợ, xóa nợ (nếu có) và phải thu vào ngân sách nhà nước khoản nợ đã được xóa.

Về thẩm quyền xóa nợ thuế, Thủ tướng được quyết định xoá khoản nợ thuế từ 15 tỷ đồng trở lên; Bộ Tài chính được xóa khoản nợ thuế 10-15 tỷ đồng; Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế, Tổng cục Hải quan được quyền xoá nợ thuế với khoản tiền 5-10 tỷ đồng; Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố được xóa khoản nợ thuế dưới 5 tỷ đồng.

7 nhóm đối tượng được xử lý nợ là người nộp thuế có tiền nợ thuế phát sinh trước ngày 01/7/2020 mà không có khả năng nộp ngân sách nhà nước bao gồm:

1. Người nộp thuế là người đã chết, người bị Tòa án tuyên bố là đã chết, mất tích hoặc mất năng lực hành vi dân sự;

2. Người nộp thuế có quyết định giải thể gửi cơ quan quản lý thuế, cơ quan đăng ký kinh doanh để làm thủ tục giải thể hoặc cơ quan đăng ký kinh doanh đã thông báo người nộp thuế đang làm thủ tục giải thể trên hệ thống thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp nhưng người nộp thuế chưa hoàn thành thủ tục giải thể;

3. Người nộp thuế đã nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản hoặc bị người có quyền, nghĩa vụ liên quan nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản theo quy định của pháp luật về phá sản;

4. Người nộp thuế không còn hoạt động kinh doanh tại địa chỉ kinh doanh đã đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh và cơ quan quản lý thuế đã phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp xã, phường, thị trấn nơi người nộp thuế có trụ sở hoặc địa chỉ liên lạc để kiểm tra, xác minh thông tin người nộp thuế không hoạt động tại địa chỉ đã đăng ký kinh doanh, địa chỉ liên lạc đã đăng ký với cơ quan quản lý thuế;

5. Người nộp thuế đã bị cơ quan quản lý thuế có văn bản đề nghị cơ quan có thẩm quyền hoặc đã bị cơ quan có thẩm quyền thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc giấy chứng nhận đăng ký hợp tác xã hoặc giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh hoặc giấy phép thành lập và hoạt động hoặc giấy phép hành nghề;

6. Người nộp thuế bị thiệt hại vật chất do gặp thiên tai, thảm họa, dịch bệnh, hoả hoạn, tai nạn bất ngờ;

7. Người nộp thuế cung ứng hàng hoá, dịch vụ được thanh toán trực tiếp bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước, bao gồm cả nhà thầu phụ được quy định trong hợp đồng ký với chủ đầu tư và được chủ đầu tư trực tiếp thanh toán nhưng chưa được thanh toán.

Linh Anh

Trí Thức Trẻ

CÙNG CHUYÊN MỤC

XEM
Trở lên trên