MỚI NHẤT!

Đọc nhanh >>

Sau 10 năm, Việt Nam mới có… 6 vụ điều tra phòng vệ thương mại

Sau hơn 10 năm ban hành pháp luật Việt Nam (VN) về các biện pháp phòng vệ thương mại (PVTM), VN mới tiến hành điều tra và áp dụng 4 vụ việc tự vệ và 2 vụ việc chống bán phá giá đối với hàng hóa nhập khẩu vào VN.

Trong khi đó, số lượng các vụ điều tra PVTM đối với hàng hóa VN ở nước ngoài lên tới 96 vụ, trong đó có tới 53 vụ bị áp dụng các biện pháp PVTM khắc nghiệt.

Chủ yếu là tự vệ

Thông tin được đưa ra tại hội nghị “Tổng kết thực thi pháp luật PVTM và đề xuất giải pháp” do Cục Quản lý cạnh tranh (Bộ Công Thương) phối hợp với VCCI tổ chức sáng nay 2.6.

Theo bà Phạm Châu Giang – Trưởng phòng điều tra, Cục Quản lý cạnh tranh (Bộ Công Thương), trong 4 vụ việc điều tra tự vệ áp dụng thuế tự vệ đối với 3 mặt hàng: dầu thực vật, bột ngọt và phôi thép và thép dài. 2 vụ việc điều tra chống bán phá giá, trong đó áp thuế một mặt hàng (thép không gỉ cán nguội) và đang trong giai đoạn điều tra sơ bộ đối với thép tôn mạ.

Mới đây, ngày 25.12.2015, Bộ trưởng Bộ Công Thương đã ban hành quyết định số 14296 về việc áp dụng biện pháp tự vệ đối với sản phẩm phôi thép và thép dài. Theo đó, biện pháp tạm thời là áp dụng mức thuế tự vệ tạm thời đối với phôi thép là 23,3% và với thép dài là 14,2% trong thời gian 200 ngày, kể từ 22.3.2016. Vụ việc điều tra hiện đang ở giai đoạn cuối, khả năng sẽ ra quyết định cuối cùng vào tháng 6.2016.

Hay trong tháng 3.2016, Bộ Công Thương cũng đã ban hàng quyết định điều tra chống bán phá giá đối với một số sản phẩm tôn mạ từ Trung Quốc và Hàn Quốc. Vụ việc hiện đang được tiến hành theo các thủ tục và trình tự phù hợp đối với pháp luật VN và WTO.

Đáng nói, mặc dù đã được xây dựng hơn 10 năm nhưng các biện pháp này mới chỉ bắt đầu thực sự được sử dụng ở VN trong khoảng 5 năm trở lại đây. Trong đó, số vụ việc điều tra áp dụng tự vệ chiếm đa số (4/6 vụ việc).

Nhìn chung, thực tiễn về xu hướng điều tra áp dụng biện pháp tự vệ nhều hơn so với hai biện pháp còn lại tại VN giống với xu hướng trên thế giới. Về cơ bản, biện pháp tự vệ được coi là van cứu trợ đối với các nước đang phát triển trước những tác động của sự gia tăng hàng nhập khẩu – kết quả của sự hội nhập kinh tế quốc tế. Trong suốt 14 năm, Bộ Công Thương chưa tiến hành điều tra áp dụng biện pháp chống trợ cấp nào.

Sẽ phải trả giá

Theo bà Nguyễn Thị Thu Trang – Giám đốc Trung tâm WTO và Hội nhập, các vụ kiện PVTM ở VN chủ yếu là kiện tự vệ bởi đây là công cụ dễ thực hiện nhất và mang tính chất bảo hộ rõ ràng. Chính vì vậy nên thời gian áp dụng rất ngắn và sẽ phải đền bù thiệt hại cho các nước đối tác nếu lượng xuất khẩu vào VN sụt giảm.

Bà Giang cho rằng, trong bối cảnh VN tham gia hàng loạt các FTAs thế hệ mới, các hàng rào thuế quan được gỡ bỏ là động lực để hàng VN vươn ra thế giới, tuy nhiên đây cũng là lúc hàng Việt phải chịu sự cạnh tranh gay gắt từ nước ngoài. Chính vì vậy, để tồn tại doanh nghiệp (DN) không còn trông chờ được vào thuế mà phải nhờ đến các biện pháp PVTM. Trong thời gian tới, các DN cần hợp tác, cung cấp đầy đủ thông tin cho các cơ quan điều tra và chủ động tìm hiểu các biện pháp PVTM để giải quyết mâu thuẫn giữa hội nhập kinh tế quốc tế và bảo vệ lợi ích của sản xuất trong nước.

Bên cạnh đó, để hoàn thiện pháp luật PVTM, cần sửa đổi, bãi bỏ những quy định không phù hợp hoặc mâu thuẫn với các Hiệp định của WTO; bổ sung những quy định còn thiếu hoặc chưa hoàn chỉnh so với các quy định WTO; xem xét bổ sung một số quy định mà WTO cho phép (quy định mở) để tăng cường tính thực thi hiệu quả và phù hợp với thực tiễn điều tra của VN; bổ sung quy định về lẩn tránh thuế để tăng tính hiệu quả của việc áp dụng các biện pháp PVTM.

DN lơ mơ về PVTM

Theo bà Nguyễn Thị Thu Trang – Giám đốc Trung tâm WTO và Hội nhập, về mức độ hiểu biết của DN về PVTM ở VN đối với hàng hóa nước ngoài, có tới 63,21% có nghe nói nhưng không biết gì sâu, 19,81% đã từng tìm hiểu sơ sơ; 15,09% không biết gì và chỉ có 1,89% là đã tìm hiểu tương đối kĩ. Cảm nhận của DN về tình hình hàng hóa nước ngoài cạnh tranh không lành mạnh về giá tại Việt Nam cũng có sự chênh lệch lớn. Có tới 56,07% DN không biết hoặc không có thông tin; trong khi chỉ có 8,41% cho rằng có nhiều. Ngoài ra, chỉ có 9,52% DN có cảm nhận về tình hình hàng hóa nước ngoài nhập khẩu ồ ạt, đột biến vào Việt Nam; trong khi số lượng không biết hoặc không có thông tin lên tới 45,71% DN.

Theo Khánh Linh

Lao động

CÙNG CHUYÊN MỤC

XEM
Trở lên trên