MỚI NHẤT!

Đọc nhanh >>

Sau dự báo nước biển dâng ảnh hưởng đến 1/3 dân số Việt Nam, mong muốn di cư của người dân thay đổi ra sao?

Sau dự báo nước biển dâng ảnh hưởng đến 1/3 dân số Việt Nam, mong muốn di cư của người dân thay đổi ra sao?

Trên thế giới, có mối quan ngại cho rằng biến đổi khí hậu sẽ dẫn đến bùng nổ di cư quốc tế, hay còn gọi là "tị nạn khí hậu". Mối quan ngại này trở nên được quan tâm ở Việt Nam sau khi truyền thông đăng tải các bài báo trích dẫn báo cáo của tổ chức Climate Central dự báo biến đổi khí hậu sẽ tác động mạnh tới Việt Nam.

Báo cáo của tổ chức Climate Central ước tính khoảng 31 triệu người ở Việt Nam, tương đương khoảng một phần ba dân số, có thể bị ảnh hưởng bởi nước biển dâng. Thông tin này có thể khiến một số người di rời Đồng bằng sông Cửu Long, và có thể dẫn tới gia tăng số người “tị nạn khí hậu” trong tương lai.

Để đánh giá tác động của biến đổi khí hậu, cụ thể hơn là thông tin về biến đổi khí hậu, đối với mong muốn di cư, khảo sát PAPI năm 2020 thêm một số câu hỏi thí nghiệm tìm hiểu tác động của thông tin về rủi ro mực nước biển dâng do biến đổi khí hậu và bản đồ chỉ rõ những vùng đất có thể bị ngập lụt tới khả năng di cư của người dân. Câu hỏi được lập trình để các phân nhóm mẫu khảo sát PAPI 2020 nhận được câu hỏi về một thông tin hoặc tập hợp thông tin về rủi ro ngập lụt đến 2050 ở Việt Nam. Qua đó có thể hiểu được phần nào thông tin về những khu vực có khả năng bị ngập lụt do nước biển dâng tác động như thế nào đến ý muốn di trú của người được hỏi.

Theo đó, mẫu khảo sát PAPI được phân thành năm nhóm ngẫu nhiên và mỗi nhóm nhận được một phiên bản của câu hỏi khảo sát về mong muốn di cư do tác động của mực nước biển dâng do biến đổi khí hậu. Phiên bản thứ nhất không có thông tin về mực nước biển dâng ở Việt Nam và dành cho nhóm đối chứng (nhóm không nhận thông tin thêm). Nhóm thứ hai nhận thêm thông tin nhấn mạnh về rủi ro mực nước biển dâng do biến đổi khí hậu vào năm 2050. Nhóm thứ ba nhận được thông tin tương tự như nhóm thứ hai, kèm thêm bản đồ của Climate Central cho thấy rõ các khu vực có khả năng bị ngập lụt do nước biển dâng. Nhóm thứ tư nhận được thông tin tương tự của như nhóm thứ hai và nhận thêm thông tin rằng một quan chức Việt Nam đã bày tỏ quan ngại về các phát hiện của tổ chức Climate Central. Lý do đưa thêm thông tin về ý kiến hoài nghi của một quan chức Việt Nam là vì ý kiến trái chiều của một số chuyên gia có thể ảnh hưởng tới sự đồng thuận với một số kết quả nghiên cứu khoa học. Do vậy, cần đánh giá tác động của các ý kiến phản đối thông tin khoa học, bởi người đưa ra ý kiến phản đối có thể có động cơ nào đó. Nhóm thứ năm nhận được cả ba thông tin ba nhóm trước nhận được. 

Theo đó, tỉ lệ người trả lời trong nhóm đối chứng (nhóm thứ nhất) mong muốn di cư thấp hơn bốn nhóm còn lại. 

Khoảng 7,6% số người được hỏi trong nhóm đối chứng cho biết họ muốn di rời tới tỉnh, thành phố khác. Tỉ lệ người muốn di cư tăng lên đáng kể khi người trả lời được cung cấp thêm thông tin về biến đổi khí hậu. Khi có thêm thông tin về khả năng ngập lụt do mực nước biển dâng, số người trả lời sẵn sàng di cư tăng từ 7,6% lên khoảng 12,3% (nhóm thứ hai). 

Tuy nhiên, việc thêm bản đồ hiển thị những khu vực có khả năng bị ngập lụt nhất không làm tăng đáng kể tỉ lệ người muốn di trú (12,8% ở nhóm thứ ba). 

Điều thú vị là tác động của thông tin về việc một quan chức bày tỏ sự nghi ngờ về phát hiện nghiên cứu của tổ chức Climate Central. Khi nhận thêm thông tin này, mức độ sẵn sàng di cư giảm từ 12,3% xuống 10,8% (tỉ lệ trong nhóm thứ tư). Tuy nhiên, khi bản đồ vùng bị ngập lụt được thêm vào, thông tin về phản ứng của vị quan chức không còn gây tác động mạnh như thông tin về mực nước biển dâng. Qua đó có thể thấy rằng, thông tin khoa học càng chi tiết, sự ngờ vực càng giảm đi, thì việc tiếp nhận thông tin khoa học càng tốt.

Nhã Mi

Doanh Nghiệp Tiếp Thị

CÙNG CHUYÊN MỤC

XEM
Trở lên trên