Không nên tạo
tiền lệ xấu
Ở Việt Nam, Luật Các tổ chức
tín dụng (2004) cũng
không cấm đảo nợ mà chỉ
quy định việc đảo nợ
được thực hiện theo quy định
của Chính phủ. Trong khi đó, quan điểm của Chính phủ
cũng như NHNN là không
cho phép đảo nợ.
Chúng tôi cho rằng
trong điều kiện thực hiện
gói hỗ trợ lãi suất hiện
nay với những mục tiêu chính sách đã đặt ra thì cần
phải hết sức thận
trọng trước vấn đề
đảo nợ. Nhìn bề ngoài đảo nợ tạo
cho người ta cái ảo giác về các khoản nợ được
hoàn trả tốt, tỷ lệ
nợ xấu hay nợ quá hạn
giảm xuống nhưng thực
chất thì không phải vậy.
Giả sử một doanh nghiệp
đang có dư nợ cũ tại ngân hàng với
lãi suất cao và trong điều kiện khó khăn hiện
nay khiến khoản nợ trên có nguy cơ
trở thành nợ xấu. Với
chính sách cho vay đảo nợ, doanh nghiệp chỉ cần
vay khoản nợ mới để
trả khoản nợ cũ và như
thế khiến cho người ta dễ đánh giá rằng
doanh nghiệp đã trả được tốt
khoản nợ vay, còn ngân hàng thì không
những thu hồi được vốn
vay mà nợ xấu cũng không có.
Thực
ra vấn đề không phải đơn giản
như vậy vì chúng ta chưa bàn đến “số
mệnh” của khoản nợ
mới sẽ như thế
nào. Khoản nợ mới được
dùng để trả nợ cũ thì không thể
tạo ra thu nhập để trả
nợ cho chính nó. Doanh
nghiệp sẽ lấy tiền
đâu để trả khoản nợ
mới đây?
Hơn nữa, nếu đảo
nợ được thực hiện
quá dễ dàng và không được kiểm soát tốt
thì người vay sẽ chẳng phải
ý thức đến việc phải
sử dụng vốn vay hiệu
quả và trả nợ theo cam kết.
Bởi vì khi nợ vay đến hạn
họ chỉ cần vay khoản
tiền mới để trả
khoản nợ cũ, rồi khoản
nợ mới lại đến
hạn và người ta lại tiếp
tục vay nợ mới để
trả nợ cũ, cứ xoay vòng như
vậy cho đến mãi mãi.
Như vậy khoản nợ
cũ ban đầu thực ra chẳng bao giờ
đáo hạn trong khi ngân
hàng vẫn phải có trách nhiệm hoàn trả tiền cho người
gửi. Tất nhiên đây chỉ là lý thuyết nhưng thực
tế nếu đảo nợ
chỉ diễn ra qua ba vòng thì cũng đã vượt ra ngoài tầm kiểm soát của
ngân hàng.
Trong khi Chính phủ
đang ra sức khuyến khích tăng trưởng tín dụng nhằm duy trì sức
tăng trưởng của nền kinh tế
thì yêu cầu bảo đảm chất
lượng tín dụng cũng phải được đặt
lên hàng đầu. Cho phép đảo nợ lúc này sẽ
tạo ra một tiền lệ
không tốt, làm xấu đi tính lành mạnh của hệ
thống tài chính vốn đang rất yếu ớt
và rất khó kiểm soát.
Giả sử nếu cho phép doanh nghiệp được
vay mới để trả nợ
cũ thì có thể tạm xem như khoản nợ
cũ đã được hoàn trả xong, gỡ một phần
gánh nặng lãi suất cho doanh nghiệp.
Tuy nhiên doanh nghiệp sẽ lấy
gì để chứng minh với ngân hàng rằng họ có khả
năng trả được nợ mới
trong khi khoản nợ này không được dùng cho mục đích sản xuất hay đầu
tư để mang lại thu nhập
- dòng tiền chính dùng để trả nợ
ngân hàng.
Nếu
doanh nghiệp vay khoản vốn mới
với số tiền lớn
hơn khoản nợ cũ để
không chỉ dùng cho việc đảo nợ
mà còn dùng vào đầu tư thì đòi hỏi tỷ suất
sinh lợi của vốn đầu
tư phải rất cao mới
có cơ sở trả được
nợ. Đây là điều khó có thể đạt được
trong điều kiện khủng hoảng
kinh tế hiện nay. Như vậy sau này liệu
có nguy cơ xảy ra đảo nợ
mới nữa hay không?!
Bên cạnh
đó, nếu Chính phủ cho phép các doanh nghiệp được phép vay mới
theo chương trình hỗ trợ lãi suất
để trả các khoản nợ cũ trước
đây đã “trót” vay với lãi
suất cao thì có nguy cơ tạo ra hiện
tượng người ăn theo (free rider).
Mặc dù Chính phủ có thể đưa
ra những quy định cụ thể
đối với những đối
tượng và phạm vi được đảo
nợ, tuy nhiên do thông
tin bất cân xứng nên Chính phủ không thể kiểm soát được
đâu là khoản nợ mà doanh nghiệp đã vay với lãi suất cao trong thời kỳ chạy đua lãi suất
và đâu là những khoản nợ quá hạn
hay nợ xấu đang nằm trong hệ thống ngân hàng chưa
được xử lý trước đây.
Người
làm luật không có quyền được đánh giá thấp
năng lực sáng tạo của người
tuân thủ luật. Các khoản nợ xấu
sẽ “ăn theo” các khoản nợ trong diện
được đảo nợ để
hưởng “lộc trời cho”. Chính sách của Chính phủ
có nguy cơ bị lợi dụng
và mục tiêu chính sách rất khó đạt được.
Lợi bất cập hại!
Các ngân hàng cũng có động
cơ để tăng cường cho vay đảo
nợ vì nếu không cho vay thì các khoản nợ xấu
vẫn “nằm im” trên bảng tổng kết
tài sản, còn nếu cho vay thì không những sẽ “làm sạch”
được các khoản nợ xấu
mà còn có thêm thu nhập từ các khoản tiền lãi hỗ
trợ của Chính phủ.
Trước mắt
có thể như vậy nhưng
nếu cái gốc không được giải quyết
thì cuối cùng các khoản nợ mới
cũng sẽ quay lại “nằm” đúng vào chỗ
các khoản nợ xấu trước
kia mà thôi.
Thực trạng khó khăn của doanh nghiệp khi ấy vẫn
còn nguyên và không nên chuyển
gánh nặng đó sang vai của hệ thống
ngân hàng vốn rất nhạy cảm
với các biến số rủi
ro trong điều kiện bất ổn
vĩ mô hiện nay.
Thực tế nếu như
không có chính sách hỗ trợ lãi suất thì nguy cơ
đảo nợ cũng có thể xảy ra vì mặt
bằng lãi suất trong nền kinh tế đã được điều
chỉnh giảm theo hướng nới lỏng
của chính sách tiền tệ.
Tuy nhiên việc
Chính phủ đưa ra chính sách hỗ trợ lãi suất
4%, áp dụng cho các khoản vay mới kể
từ ngày 1-2-2009 đã tạo lý do cho các đề xuất đảo
nợ. Tất nhiên chính sách hỗ trợ lãi suất
của Chính phủ là cần thiết
và tự nó không có lỗi mà vấn đề
nằm ở khía cạnh rủi
ro đạo đức.
Đâu là giải
pháp?
Luật
Các tổ chức tín dụng và Quy chế
cho vay hiện hành đưa ra các điều kiện vay vốn
trong đó quy định mục đích sử dụng vốn
vay phải hợp pháp và khách hàng phải có dự án đầu
tư, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch
vụ khả thi và có hiệu quả; hoặc
có dự án đầu tư, phương
án phục vụ đời sống
khả thi và phù hợp với quy định
của pháp luật.
Tất nhiên trong hoạt
động tín dụng ngân hàng, thông tin bất cân xứng luôn là một
thách thức lớn cho các ngân hàng nhưng cũng khó để “thoát” được những quy định
pháp lý trừ khi nhân viên
tín dụng được thừa nhận
là không đủ “năng lực”.
Giải
pháp ngắn hạn cho vấn đề
này là thay vì cho phép đảo
nợ, các ngân hàng nên xem
xét cấu trúc lại danh mục các khoản nợ vay trước
đây của các doanh nghiệp có lãi suất cao.
Theo đó, các hợp đồng tín dụng
có điều khoản lãi suất thả nổi
hoặc điều chỉnh định
kỳ nhưng chưa đến hạn
thì nên sớm điều chỉnh lại
lãi suất cho doanh nghiệp nhằm chia sẻ
một phần khó khăn cho doanh nghiệp.
Đối với hợp đồng
có điều khoản lãi suất cố định,
ngân hàng cần tiến hành rà soát và đánh giá lại các phương án vay vốn, tái thẩm định lại
các dự án đầu tư theo các tiêu chí hiện tại.
Chỉ những dự án nào được
đánh giá hiệu quả theo những tiêu chí mới, có triển vọng trả
nợ thì đề xuất Chính phủ
xem xét đưa vào diện được hỗ
trợ lãi suất. Khoản lãi suất
hỗ trợ sẽ chỉ
được hoàn lại khi doanh nghiệp trả được
nợ đầy đủ và đúng hạn
cho ngân hàng theo cam kết
trong hợp đồng tín dụng.
Những dự
án gặp khó khăn tạm thời thì cần
phải cơ cấu lại
thời hạn trả nợ,
cho phép doanh nghiệp được giãn, hoãn trả nợ gốc
và/hoặc lãi trong một giai đoạn nhất định
hay thực hiện ân hạn, gia hạn
nợ vay cho doanh nghiệp.
Ngân hàng cũng không nên quá thận trọng
khi quy định doanh nghiệp phải hoàn trả
nợ cũ trước khi vay mới nếu như
khoản nợ cũ chưa đến
hạn.
Trong một số lĩnh vực
(nông, lâm, ngư nghiệp, xuất khẩu…
được sự khuyến khích của
Chính phủ), nếu khoản nợ
cũ đã đến hạn nhưng doanh nghiệp
chưa có khả năng trả nợ do gặp
khó khăn tạm thời hoặc khách quan thì có thể trình Chính phủ
xem xét khoanh nợ và tiến hành cho vay mới nếu phương
án sử dụng vốn vay mới
được đánh giá khả thi và hiệu quả.
Việc
một doanh nghiệp có thể cùng lúc vay nhiều
khoản vốn khác nhau tại một hoặc
nhiều ngân hàng là điều bình thường. Mỗi khoản
vay sẽ phải tuân thủ các quy định về điều
kiện vay vốn theo Quy chế cho vay của NHNN một cách độc lập tương
đối với nhau.
Ngoài ra, một
trong những rào cản cố hữu
làm hạn chế quyền tiếp
cận vốn vay của doanh nghiệp,
đặc biệt các doanh nghiệp nhỏ và vừa
(DNNVV), là tài sản đảm bảo. Đã đến
lúc các quỹ bảo lãnh DNNVV cần phải tích cực
phát huy vai trò quan trọng
của mình.
Tuy nhiên, hơn ai hết các ngân hàng nên thực hiện
đánh giá lại giá trị các tài sản đảm bảo
nợ vay của các doanh nghiệp và tiến hành giải
chấp hoặc cho vay bổ sung phần vốn tương
ứng với phần giá trị
tài sản đảm bảo dôi ra nếu
có nhằm “giải phóng” lực cản tiếp
cận vốn cho doanh nghiệp.
Tóm lại,
đảo nợ là một vấn
đề hết sức nhạy
cảm nên cần phải thận
trọng khi quyết định có cho phép đảo
nợ hay không. Phân tích
khía cạnh rủi ro đạo đức
cho thấy đảo nợ nếu
không được kiểm soát tốt có thể làm xấu
đi tính lành mạnh của hệ thống
tài chính.
Thay vì cho phép đảo
nợ, Chính phủ nên có chính sách khuyến khích các ngân hàng cơ cấu lại
nợ vay cho doanh nghiệp, điều chỉnh
lại lãi suất và xem xét giảm, giãn lãi cho doanh nghiệp.
Chính sách này, mặc dù không hoàn toàn giúp
doanh nghiệp vượt qua các khó khăn nội tại và bản
thân nó cũng không thể
tránh khỏi yếu tố rủi
ro đạo đức, nhưng trước
mắt nó cũng giúp gỡ một phần
khó khăn cho doanh nghiệp
hiện nay.
Theo Đỗ Thiên Anh Tuấn
TBKTSG