MỚI NHẤT!

Đọc nhanh >>

“Cao tốc” tăng trưởng ASEAN qua những con số

21-11-2014 - 10:36 AM | Tài chính quốc tế

ASEAN không chỉ hấp dẫn đầu tư nhờ năng lực sản xuất mà NĐT còn thấy ASEAN như một thị trường nội địa rất lớn.

5, 55, 2, 7, 46, 690, 9, 70, 1/3, 26. Dãy số nhìn rời rạc này không phải là mã số bí mật. Đó là 10 con số quan trọng để hiểu về tuyến đường cao tốc tăng trưởng mang tên “ASEAN”.

Phân hóa cao nhưng dựa trên đồng thuận

Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) được thành lập ngày 8/8/1967 bởi 5 thành viên sáng lập là Indonesia, Philippines, Malaysia, Singapore và Thái Lan. Sau đó, lần lượt Brunei gia nhập năm 1984, Việt Nam năm 1995, Lào năm 1997, Myanmar năm 1997 và Campuchia năm 1999, tạo nên danh sách 10 nước thành viên hiện nay.

Khác với Liên minh châu Âu (EU), ASEAN hoạt động theo nguyên tắc đồng thuận. Đây chính là nét riêng của ASEAN. Không có cơ quan quyền lực trung ương như Ủy ban châu Âu (EC) để bảo đảm các nước thành viên phải tuân thủ các cam kết mà họ đưa ra. Mục tiêu của ASEAN là hội nhập ngày một sâu rộng giống như một thị trường đồng nhất. Một sáng kiến quan trọng để hiện thực hóa mục tiêu này là Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC), dự kiến được thành lập vào năm 2015.

Nhưng ASEAN cũng là khu vực có sự phân hóa cao, ví dụ GDP bình quân đầu người của Singapore cao gấp 55 lần so với Campuchia. Ngoài phân hóa về kinh tế, ASEAN còn khác biệt về văn hóa, ngôn ngữ, hệ thống chính trị và dân tộc. Sự phân hóa này có thể giải thích phần nào những khó khăn của khu vực trong quá trình hội nhập.

Đồng thời, cách biệt lớn về kinh tế đòi hỏi quá trình hội nhập phải được thúc đẩy hơn nữa nhằm thu hẹp khoảng cách về mức thu nhập trong khu vực. Tuy nhiên, sự phân hóa này không hoàn toàn mang tính tiêu cực. Bởi qua đó, ASEAN mang đến cho các DN nhiều sự lựa chọn khi hoạt động tại đây, trong bối cảnh hội nhập kinh tế sâu rộng.

Luôn duy trì được tăng trưởng cao

ASEAN lâu nay luôn là khu vực tăng trưởng cao và ổn định hơn các khu vực khác. Trong giai đoạn 1980-2013, tốc độ tăng trưởng hàng năm của ASEAN cao hơn tốc độ tăng trưởng toàn cầu 2%. Thành tựu này đã thu hẹp khoảng cách GDP bình quân đầu người giữa mức bình quân toàn cầu với ASEAN từ 6 lần vào năm 1980 xuống còn 2,7 lần vào năm 2013.

Đáng chú ý là tốc độ tăng trưởng của khu vực luôn được duy trì ổn định. Từ 1980 đến 2013, tốc độ tăng trưởng chung đạt trên 5. Ngay cả trong giai đoạn khủng hoảng tài chính toàn cầu, tốc độ tăng trưởng của ASEAN vẫn đạt 4,9%. Chúng tôi tin rằng hơn một nửa số thành viên của ASEAN có tiềm năng tăng trưởng ở mức 7% hoặc cao hơn. Hiện tốc độ tăng trưởng này đang được ghi nhận ở các quốc gia như Myanmar, Lào và Campuchia. Với tốc độ tăng trưởng 7%, quy mô của một nền kinh tế sẽ gia tăng gấp đôi sau mỗi chu kỳ 10 năm.

Dù ASEAN có mức tăng trưởng cao trong vài thập kỷ qua, nhưng vẫn còn nhiều dư địa tăng trưởng trong khu vực. Tỷ lệ nông nghiệp của khu vực vẫn còn khá cao vì tính đến năm 2013, chỉ có 46% dân số sống ở thành thị. Trong khi đó, trên thế giới, tỷ lệ đô thị hóa đã vượt mốc 50% từ năm 2007.

Với giả thiết xu hướng đô thị hóa của các nước ASEAN sẽ tiếp tục được thúc đẩy, ước tính GDP bình quân đầu người của ASEAN sẽ tăng hơn gấp đôi, từ 3.900 USD năm 2013 lên 8.500 USD năm 2030. Đến lúc đó, tỷ lệ đô thị hóa của ASEAN có thể đạt tới 60%.

Nhờ quá trình đô thị hóa, thị trường tiêu dùng của ASEAN đang mở rộng. Dân số ASEAN dự kiến sẽ tăng thêm hơn 10% lên 690 triệu vào năm 2020. Dân số đô thị của ASEAN dự kiến sẽ gia tăng tương đương với 3,3 lần dân số Thượng Hải (Trung Quốc), 4,4 lần dân số Delhi (Ấn Độ), và 9 lần dân số Tokyo (Nhật Bản) tính tại thời điểm năm 2013. Vì vậy, người tiêu dùng ASEAN sẽ là một nguồn cầu mạnh mẽ cho thị trường bất động sản, đồ gia dụng, các loại phương tiện cơ giới, sản phẩm điện tử viễn thông, dịch vụ chăm sóc sức khỏe và tài chính.

Hấp dẫn với các NĐT quốc tế

Khu vực này thu hút 9% dòng vốn FDI toàn cầu năm 2013, vượt qua cả Trung Quốc. Hầu hết vốn FDI được đổ vào lĩnh vực sản xuất và điều này cho thấy điểm tích cực của ASEAN. Tuy nhiên, ASEAN không chỉ hấp dẫn đầu tư nhờ năng lực sản xuất mà NĐT còn thấy ASEAN như một thị trường nội địa rất lớn. Nếu xem ASEAN là một quốc gia duy nhất, đó sẽ là thị trường lớn thứ ba trên thế giới về dân số sau Trung Quốc và Ấn Độ.

ASEAN có thể được lợi từ sự suy giảm sức cạnh tranh về chi phí của Trung Quốc. Lực lượng lao động của ASEAN dự kiến sẽ tăng thêm 70 triệu vào năm 2030 (so với năm 2010). Cơ cấu nhân khẩu học thuận lợi của ASEAN giúp khu vực này thu hút các NĐT đang tìm kiếm khu vực đặt cơ sở sản xuất bên ngoài Trung Quốc.

Tuy nhiên, ASEAN (ngoại trừ Singapore) sẽ cần phải nâng cao năng suất lao động để thu hút đầu tư. Năng suất lao động tại hầu hết các nước ASEAN hiện chỉ bằng khoảng 1/3 đến 1/2 so với năng suất lao động tại Mỹ.

Và khu vực này cũng có thể đẩy mạnh vai trò của mình trong thương mại toàn cầu. ASEAN đứng thứ tư thế giới về xuất khẩu và chiếm 7% kim ngạch xuất khẩu toàn cầu trong năm 2013. Trong dài hạn, ASEAN sẽ có lợi từ các hiệp định thương mại tự do hiện đang được đàm phán như: Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện khu vực (RCEP); Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Thông qua những hiệp định này, các nền kinh tế ASEAN có thể tiếp cận những thị trường có quy mô lớn hơn nhiều lần.

Ngoài ra, thương mại nội khối cũng có thể phát triển hơn nữa nhờ tăng cường hợp tác kinh tế ngày càng mạnh mẽ với sự hỗ trợ của các sáng kiến, trong đó có việc thành lập AEC và sự hỗ trợ của dòng vốn FDI. Năm 2013, thương mại nội khối chiếm khoảng 26% tổng khối lượng thương mại của ASEAN.

Trong một vài tháng trở lại đây, niềm tin vào nền kinh tế toàn cầu nằm ở mức thấp và ASEAN cũng ít nhiều bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, chỉ cần mức tăng trưởng “chậm” xung quanh 5% trong ngắn hạn thì ASEAN vẫn là một khu vực rất khả quan.

Theo Edward Lee (Trưởng Nhóm Nghiên cứu Vĩ mô ASEAN, NH Standard Chartered)

huongnt

Thời báo Ngân hàng

Trở lên trên