MỚI NHẤT!

Đọc nhanh >>

Chủ tịch UBCK: Quyết định nới room về cơ bản đã hoàn thành, chờ Chính phủ ban hành

UBCKNN nghiên cứu đề xuất nâng cao khả năng tham gia của nhà ĐTNN thông qua cổ phiếu không có quyền biểu quyết hay chứng chỉ lưu ký không có quyền biểu quyết (NVDR).

Trong không khí chờ đón Xuân về, Chủ tịch Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) Vũ Bằng đã có cuộc trả lời phỏng vấn về những thành tích đạt được của ngành Chứng khoán trong một năm qua với không ít khó khăn, thách thức nhưng cũng đầy ắp những con số, sự kiện ấn tượng và cả những thành công tiếp nối thành công. Chủ tịch cũng đã chia sẻ một số dự định về công tác điều hành thị trường trong năm mới 2014.

Thưa Chủ tịch! Trong bối cảnh kinh tế vĩ mô còn nhiều khó khăn, ngay từ đầu năm 2013, UBCKNN đã đề xuất 8 nhóm giải pháp hỗ trợ TTCK. Xin Chủ tịch cho biết, những nhóm giải pháp trên đã tác động như thế nào đến diễn biến của TTCK trong năm vừa qua?

Như chúng ta đã thấy, bước sang năm 2013, kinh tế nước ta còn khá nhiều khó khăn, thách thức trong bối cảnh kinh tế - tài chính thế giới còn nhiều bất ổn và khả năng phục hồi yếu. Trong bối cảnh đó, nhằm một mặt triển khai các nhiệm vụ tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô theo Nghị quyết 01/NQ-CP và tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường, giải quyết nợ xấu theo Nghị quyết 02/NQ-CP của Chính phủ, mặt khác nhằm đẩy mạnh công tác tái cấu trúc TTCK, chúng ta đã đề xuất 8 nhóm giải pháp.

Cho đến nay, mặc dù các kết quả đạt được chưa thực sự như chúng ta mong muốn nhưng những giải pháp triển khai trong năm 2013 đã góp phần tích cực vào việc đạt được những mục tiêu kinh tế chung của cả nước, qua đó đã thúc đẩy hoạt động của TTCK trong năm qua.

Mặc dù tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa cao so với tiềm năng nhưng đã cao hơn so với năm 2012, đạt mức 5,42%; hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp còn khó khăn nhưng kinh tế vĩ mô đã có những bước ổn định, các giải pháp vĩ mô đã dần phát huy tác dụng. Lạm phát được kiềm chế cả năm ở mức 6,04%, mức thấp nhất trong vòng 10 năm trở lại đây; chỉ số sản xuất công nghiệp đã tăng 5,6% so với cùng kỳ năm ngoái; cán cân thanh toán được cải thiện. Mặt bằng lãi suất có chiều hướng giảm dần; thị trường ngoại hối trong xu thế ổn định, dự trữ ngoại tệ tăng. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tăng 54,2% so với cùng kỳ năm ngoái; quy mô dòng vốn đầu tư gián tiếp (FII) tăng...

TTCK đã được nhìn nhận đúng bản chất và vai trò hơn; các công ty vẫn có thể phát hành dưới mệnh giá nếu có đủ nguồn vốn bù đắp phần thiếu hụt so với mệnh giá, qua đó đã tháo gỡ khó khăn cho nhiều doanh nghiệp trong vấn đề huy động vốn; khung pháp lý đối với các loại quỹ đầu tư mới đã được ban hành đầy đủ, qua đó góp phần hình thành các loại quỹ mới nhằm tạo sức cầu bền vững và đáp ứng được nhu cầu của các nhà đầu tư trên thị trường, do vậy đã có 09 quỹ mở được hình thành và sắp tới sẽ có thêm quỹ đầu tư bất động sản (BĐS).

Quyết định thay thế Quyết định số 55/2009/QĐ-TTg về tỷ lệ tham gia của nhà đầu tư nước ngoài (ĐTNN) trên TTCK về cơ bản đã được hoàn thành và sẽ sớm được ban hành. Thủ tục cấp mã số giao dịch đối với nhà ĐTNN đã được cải tiến theo hướng giảm thủ tục hành chính, đồng thời tăng cường chế độ báo cáo và tính minh bạch của dòng vốn này. Cơ chế tài chính, chế độ kế toán, kiểm toán mới cũng đã tiếp tục được triển khai.

Nhằm tăng khả năng thanh khoản và sức cầu trên thị trường, chúng ta cũng đã áp dụng các giải pháp như giảm thuế đối với chuyển nhượng chứng khoán, kéo dài thời gian giao dịch, áp dụng lệnh thị trường, nới biên độ giao dịch, điều chỉnh tỷ lệ giao dịch ký quỹ từ 40/60 lên 50/50.

Công tác tái cấu trúc TTCK được đẩy mạnh, đặc biệt là vấn đề sắp xếp lại các tổ chức kinh doanh chứng khoán và việc ban hành các quy định mới về quỹ mở, triển khai giao dịch ETF đã tạo điều kiện thu hút dòng vốn ĐTNN, nhất là các tổ chức ĐTNN.

Nhờ điều kiện kinh tế vĩ mô có cải thiện và triển khai đồng thời các giải pháp trên, TTCK Việt Nam năm 2013 đã có những diễn biến và kết quả khả quan. Chỉ số VN Index tăng 23%; HNX Index tăng gần 19% so với cuối năm 2012. TTCK Việt Nam được đánh giá là 1 trong 10 thị trường có mức độ phục hồi mạnh nhất trên thế giới.

Mức vốn hóa vào khoảng 964 nghìn tỷ đồng (tăng 199 nghìn tỷ đồng so với cuối năm 2012), tương đương 32% GDP. Quy mô giao dịch bình quân mỗi phiên tăng 31%. Tổng giá trị huy động vốn kể cả phát hành riêng lẻ ước đạt 222 nghìn tỷ đồng, tăng 25%, đóng góp vào khoảng 22% tổng vốn đầu tư toàn xã hội; trong đó cổ phiếu là 20,5 nghìn tỷ đồng, tăng 22% so với năm 2012; trái phiếu chính phủ (TPCP) đạt 177,5 nghìn tỷ đồng, tăng 24%. Tổng dòng vốn nước ngoài luân chuyển đến nay đạt 4,4 tỷ USD, tăng 54% so với cùng kỳ năm ngoái và giá trị danh mục tăng khoảng 3,8 tỷ USD so với cuối năm 2012.

Về hoạt động của các công ty niêm yết (CtyNY), nhìn chung so với năm 2012 thì tổng doanh thu và tổng lợi nhuận sau thuế tăng; chi phí tài chính giảm; tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE) tăng. Tuy nhiên tỷ lệ công ty có lỗ lũy kế vẫn ở mức tương đương năm 2012. Nếu so với các doanh nghiệp chưa niêm yết, các CtyNY vẫn có khả năng lợi nhuận cao hơn.

Trong năm 2013, tái cấu trúc TTCK, nghiên cứu sản phẩm mới và ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) hiện đại trong quản lý và giám sát thị trường đã được triển khai mạnh mẽ và quyết liệt, theo đó thị trường đã ghi nhận được một số kết quả bước đầu khả quan. Chủ tịch có thể cho biết công tác này sẽ tiếp tục được đẩy mạnh theo lộ trình như thế nào trong năm 2014?

Trong năm 2013, công tác tái cấu trúc TTCK đã được triển khai một cách quyết liệt, đồng bộ trên 4 trụ cột chính dựa trên nguyên tắc đảm bảo tuân thủ luật pháp và tôn trọng kỷ luật thị trường. Do vậy, chúng ta đã đạt được những kết quả bước đầu khá tích cực, đó là đối với tái cấu trúc cơ sở hàng hóa thì tiêu chuẩn phát hành, niêm yết được nâng cao, tính công khai, minh bạch của thị trường được cải thiện và từng bước tiếp cận các chuẩn mực quốc tế; đối với tái cấu trúc cơ sở nhà đầu tư thì cơ sở các nhà đầu tư trên thị trường đã có sự cải thiện với số lượng tài khoản nhà đầu tư đạt gần 1,4 triệu, trong đó số lượng nhà ĐTNN tăng 10%; đặc biệt là nhà đầu tư tổ chức nước ngoài tăng 55%.

Khung pháp lý về các loại hình quỹ đã được ban hành, có 09 quỹ mở được thành lập, dự kiến sẽ có trên 05 quỹ mở và 01 quỹ đầu tư BĐS mới trong thời gian tới; Đề án phát triển quỹ hưu trí tự nguyện cũng đã được hoàn thành.

Đối với tái cấu trúc các tổ chức kinh doanh chứng khoán, các mục tiêu cơ bản đã đạt được, từng bước thu hẹp số lượng, nâng cao chất lượng hoạt động qua việc tăng cường năng lực tài chính, quản trị công ty (QTCty), quản trị rủi ro; củng cố hoạt động; cơ cấu lại tổ chức, nhân sự. Khung pháp lý được hoàn thiện nhằm đẩy nhanh việc tái cấu trúc.

Thực hiện phân loại các công ty chứng khoán (CtyCK) thành 4 nhóm, trên cơ sở đó thực hiện quản lý và có các biện pháp xử lý phù hợp, do vậy đã ra quyết định chấp thuận rút nghiệp vụ Môi giới chứng khoán của 06 CtyCK; nghiệp vụ Tự doanh của 02 CtyCK; nghiệp vụ Bảo lãnh phát hành của 04 CtyCK; rút nghiệp vụ tư vấn đầu tư chứng khoán của 01 CtyCK; hợp nhất đối với 2 CtyCK, tiến hành thủ tục giải thể đối với 3 CtyCK...; như vậy trên thực tế đã có 15 công ty không còn hoạt động.

Đối với các công ty quản lý quỹ, hiện chỉ còn 41/47 công ty đang còn hoạt động, 06 công ty đã được xử lý bằng nhiều giải pháp, rút khỏi thị trường.

Đối với tái cấu trúc thị trường giao dịch chứng khoán, Đề án hợp nhất 2 Sở Giao dịch Chứng khoán (SGDCK) nhằm thống nhất theo chuẩn mực chung đã được xây dựng để trình Thủ tướng Chính phủ; xây dựng Đề án Trung tâm thanh toán bù trừ theo mô hình đối tác trung tâm; xây dựng cơ chế và hệ thống CNTT vay và cho vay chứng khoán phục vụ cho việc thanh toán, bù trừ các sản phẩm phái sinh; phối hợp với Ngân hàng Nhà nước (NHNN) xây dựng và triển khai Đề án chuyển chức năng thanh toán tiền TPCP từ ngân hàng thương mại (NHTM) sang NHNN. Đề án TTCK phái sinh đã được hoàn chỉnh trình Thủ tướng Chính phủ.

Trong năm 2014, công tác tái cấu trúc TTCK tiếp tục được đẩy mạnh trên cơ sở các giải pháp chính sau đây:

Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện các đề án như Đề án TTCK phái sinh; Nghị định về TTCK phái sinh; Đề án thành lập SGDCK Việt Nam và Quyết định về tỷ lệ tham gia của nhà ĐTNN trên TTCK Việt Nam. Đồng thời rà soát, đánh giá hệ thống văn bản pháp luật nhằm đẩy nhanh tiến trình tái cấu trúc và phát triển TTCK, phục vụ hiệu quả tái cấu trúc nền kinh tế và tuân thủ các cam kết quốc tế như cam kết gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và trong thời gian tới là Hiệp định Đối tác Kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP).

Thứ hai, về tái cấu trúc cơ sở hàng hóa: rà soát lại danh mục các CtyNY trên các SGDCK, trong đó chú trọng chất lượng doanh nghiệp niêm yết; nâng cao chất lượng QTCty, quản trị rủi ro; tiếp tục tăng cường tính minh bạch trên TTCK; phối hợp thực hiện cổ phần hóa, đấu giá cổ phần các doanh nghiệp Nhà nước nhằm tạo hàng hóa có chất lượng cao cho thị trường.

Thứ ba, về tái cấu trúc cơ sở nhà đầu tư: tập trung phát triển nhà đầu tư tổ chức, theo đó cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách để triển khai quỹ hưu trí tự nguyện; điều chỉnh quy định về tỷ lệ tham gia của nhà ĐTNN tại các doanh nghiệp Việt Nam theo hướng mở rộng đối với các lĩnh vực, ngành nghề không cần kiểm soát; tiếp tục triển khai các loại hình quỹ mới như quỹ mở, công ty đầu tư chứng khoán, quỹ đầu tư BĐS và các cơ chế tài chính, kế toán với các quỹ này; phát triển các nhà đầu tư tổ chức, các nhà tạo lập thị trường và hoàn thiện cơ chế, hệ thống giao dịch trái phiếu nhằm tạo cơ sở cho việc phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp.

Thứ tư, về tái cấu trúc các tổ chức kinh doanh chứng khoán: tiếp tục thực hiện cơ cấu lại hệ thống các tổ chức kinh doanh chứng khoán trên cơ sở phân loại và theo hướng nâng cao chất lượng dịch vụ chứng khoán; nâng cao năng lực tài chính, QTCty, quản trị rủi ro; hoàn thiện và triển khai giám sát hoạt động các tổ chức kinh doanh chứng khoán theo phân loại; cho phép nhà ĐTNN sở hữu các tổ chức kinh doanh theo các cam kết WTO, khuyến khích các tổ chức tài chính quốc tế có uy tín tham gia.

Thứ năm, về tái cấu trúc tổ chức quản lý thị trường: tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Đề án, Quyết định về tổ chức và hoạt động của SGDCK Việt Nam trên nguyên tắc thống nhất về chức năng như bộ máy quản lý và quản trị hoạt động, trong đó chú trọng các nội dung CNTT, tiêu chí niêm yết, thành viên giao dịch và công bố thông tin; củng cố mô hình hoạt động độc lập của Trung tâm Lưu ký Chứng khoán (TTLKCK) Việt Nam theo hướng bổ sung chức năng đối tác thanh toán trung tâm (CCP); Xây dựng hệ thống vay và cho vay chứng khoán; phương thức thanh toán, bù trừ, trước mắt đối với TPCP; Chuyển chức năng thanh toán trái phiếu từ NHTM sang NHNN; tiếp tục hoàn thiện cấu trúc giao dịch và sản phẩm của các SGDCK; nghiên cứu xây dựng bộ chỉ số mới, chỉ số trái phiếu, hệ thống các loại lệnh giao dịch…

Thời gian gần đây, câu chuyện nâng tỷ lệ sở hữu của nhà ĐTNN tại các Cty NY được các nhà đầu tư, đặc biệt là nhà ĐTNN dành nhiều quan tâm, bởi đây sẽ là một trong những động lực chính tác động tích cực đến đà tăng trưởng của TTCK. Về vấn đề này, UBCKNN đã đề xuất giải pháp như thế nào, thưa Chủ tịch?

Như chúng ta đã biết trong những năm qua, chủ trương chung của Đảng và Nhà nước ta là tiếp tục tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế và thu hút dòng vốn ĐTNN; đồng thời quan điểm chung đó là cho phép nhà ĐTNN sở hữu ở những lĩnh vực, ngành nghề mà Nhà nước không cần kiểm soát.

Ngoài ra, thực hiện cam kết WTO về việc cho phép nhà ĐTNN sở hữu đến 100% các tổ chức kinh doanh chứng khoán, UBCKNN đã xây dựng Quyết định thay thế Quyết định 55/2009/QĐ-TTg về tỷ lệ tham gia của nhà ĐTNN trên TTCK Việt Nam trình Bộ Tài chính và lấy ý kiến nhiều lần các Bộ, ngành để trình Thủ tướng Chính phủ ban hành; cho đến nay về cơ bản đã hoàn tất trình Thủ tướng Chính phủ ban hành trong thời gian sắp tới.

Bên cạnh đó, để thu hút các nhà ĐTNN tham gia trên TTCK Việt Nam thì các thủ tục hành chính đã được giảm thiểu nhưng vẫn bảo đảm yêu cầu về tính minh bạch, chế độ báo cáo của dòng vốn gián tiếp; đồng thời UBCKNN cũng đang tiếp tục nghiên cứu đề xuất nâng cao khả năng tham gia của nhà ĐTNN thông qua các loại chứng khoán đặc thù như cổ phiếu không có quyền biểu quyết hay chứng chỉ lưu ký không có quyền biểu quyết (NVDR).

Là người trực tiếp lãnh đạo điều hành TTCK Việt Nam, xin Chủ tịch chia sẻ những dự định của UBCKNN trong công tác quản lý, định hướng phát triển cho TTCK Việt Nam trong thời gian tới?

Bước sang năm 2014, tình hình kinh tế thế giới được dự báo có những triển vọng sáng hơn nhưng cũng tiềm ẩn rủi ro như tốc độ tăng trưởng chậm lại ở các nền kinh tế mới nổi, khả năng đảo chiều dòng vốn; thất nghiệp vẫn cao ở các nền kinh tế phát triển.

Trong nước, nền kinh tế đã có những tiền đề cơ bản nhưng vẫn còn nhiều thách thức. Trong bối cảnh đó, các mục tiêu cơ bản đối với TTCK năm 2014 là: (i) Bảo đảm duy trì sự ổn định và bền vững của TTCK; (ii) Tiếp tục triển khai hiệu quả công tác phát triển và tái cấu trúc TTCK, hướng tới các giải pháp dài hạn; (iii) Xây dựng cơ chế, chính sách và giải pháp tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và TTCK; (iv) Tăng cường hội nhập quốc tế và bảo đảm triển khai, thực thi hiệu quả các cam kết quốc tế đã tham gia.

Để thực hiện các mục tiêu trên, trong thời gian tới, cần tiếp tục triển khai các giải pháp sau:

Thứ nhất, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý, cơ chế, chính sách, đề án bao gồm Đề án TTCK phái sinh và Nghị định về TTCK phái sinh (trình Chính phủ trong Quý II/2014); Đề án thành lập SGDCK Việt Nam Nam trên nguyên tắc thống nhất về bộ máy quản lý, công nghệ, chế độ báo cáo, công bố thông tin, thành viên và giao dịch...

Thứ hai, tiếp tục triển khai giao dịch Quỹ hoán đổi danh mục (ETF); trước mắt sẽ hoàn tất việc chạy thử với các CtyCK đã hoàn thiện hệ thống thanh toán để đưa giao dịch ETF vào hoạt động. Xây dựng phương án đối tác bù trừ trung tâm (CCP), Đề án xây dựng hệ thống vay và cho vay chứng khoán (SBL), phương thức thanh toán, bù trừ, trước mắt đối với TPCP; chuyển chức năng thanh toán trái phiếu từ NHTM sang NHNN; tiếp tục nghiên cứu triển khai các sản phẩm mới tại các SGDCK như chứng quyền (covered warrant), kết nối hệ thống với hãng Bloomberg, Đề án về sản phẩm tiền phát hành (When-issued)...

Thứ ba, tăng cường thu hút vốn ĐTNN và thực hiện các cam kết quốc tế như cam kết WTO qua việc: (i) Triển khai Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về tỷ lệ tham gia của nhà ĐTNN trên thị TTCK Việt Nam và xây dựng các thông tư hướng dẫn liên quan; tiến hành phân loại danh mục các doanh nghiệp không cần kiểm soát; (ii) Nghiên cứu và tiến tới đàm phán với các quốc gia châu Âu theo tinh thần của Nghị định châu Âu (ESMA) và với các quốc gia Bắc Mỹ nhằm công nhận UBCKNN (SSC) là cơ quan quản lý nhà nước về TTCK tại Việt Nam, để huy động thêm vốn từ các quỹ đại chúng tại châu Âu và Bắc Mỹ.

Thứ tư, tiếp tục rà soát, hoàn thiện lại các quy định về công bố thông tin, QTCty, xây dựng, ban hành các quy định hướng dẫn chế độ kế toán, kiểm toán phù hợp hơn với các chuẩn mực quốc tế: chế độ kế toán đối với CtyCK, công ty quản lý quỹ; chế độ kế toán đối với TTCK phái sinh.

Thứ năm, tiếp tục thúc đẩy công tác tái cấu trúc các tổ chức kinh doanh chứng khoán trên cơ sở phân loại theo tiêu chí và các biện pháp xử lý phù hợp. Nghiên cứu xây dựng mô hình về quỹ bảo vệ nhà đầu tư để xử lý vấn đề khi nhà đầu tư bị lạm dụng tài sản.

Thứ sáu, tiếp tục tăng cường công tác quản lý, giám sát thị trường qua việc tăng cường công tác thanh tra, giám sát thị trường, xử lý nghiêm các hiện tượng vi phạm; triển khai kế hoạch thanh tra, kiểm tra định kỳ trong kế hoạch năm 2014; đồng thời ban hành thông tư hướng dẫn Nghị định 108/CP về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và TTCK; Thông tư sửa đổi về công tác giám sát giao dịch chứng khoán.

Cuối cùng là tiếp tục triển khai các đề án về công nghệ áp dụng cho TTCK và CNTT cho công tác quản lý, giám sát TTCK. Nâng cấp hệ thống hạ tầng kỹ thuật thị trường bao gồm hệ thống giao dịch, đăng ký lưu ký, thanh toán bù trừ, hệ thống công bố thông tin, giám sát.

Xin trân trọng cảm ơn Chủ tịch!

Theo LH

phuongmai

MOF

Trở lên trên