Bộ Xây dựng chỉ ra hàng loạt tồn tại, hạn chế của ngành
Bộ Xây dựng cho biết, bên cạnh những kết quả đạt được trong năm 2014 ngành Xây dựng vẫn còn một số tồn tại, hạn chế chưa được khắc phục.
Trong báo cáo về tình hình thực hiện kế hoạch năm 2014, đánh giá kết quả 4 năm 2011-2014, dự báo thực hiện 5 năm 2011-2015 và phương hướng nhiệm vụ trọng tâm của năm 2015, Bộ Xây dựng cho biết, bên cạnh những kết quả đạt được trong năm 2014 ngành Xây dựng vẫn còn một số tồn tại, hạn chế chưa được khắc phục.
Thứ nhất là chất lượng một số công trình còn thấp, tình trạng chậm tiến độ thi công, nợ đọng kéo dài trong đầu tư xây dựng, làm giảm hiệu quả sử dụng vốn đầu tư.
Thứ hai, công tác thẩm định, phê duyệt quy hoạch xây dựng ở một số địa phương còn chậm, nhất là quy hoạch phân khu, quy hoạch chi tiết, thiết kế đô thị, dẫn đến hạn chế tốc độ đầu tư. Chất lượng một số đồ án quy hoạch còn hạn chế, công tác quản lý xây dựng theo quy hoạch còn nhiều bất cập.
Thứ ba, việc triển khai thực hiện Nghị định 11/2013/NĐ ở nhiều địa phương chưa thật tích cực, chưa xem xét phê duyệt các khu vực phát triển đô thị, chưa thành lập các ban quản lý khu vực phát triển đô thị. Nhiều đô thị đã được phân loại, mở rộng quy mô nhưng chậm rà soát, điều chỉnh quy hoạch chung.
Thứ tư, việc đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội đô thị tại một số địa phương còn chậm và thiếu đồng bộ, Các chuyên ngành hạ tầng kỹ thuật chậm được phê duyệt, tình hình triển khai các quy hoạch còn chậm.
Thứ năm, công tác phát triển nhà ở xã hội tại một số địa phương chưa thực sự được quan tâm đúng mức, chưa thu hút được nhiều doanh nghiệp tham gia đầu tư, nguồn cung nhà ở xã hội còn thiếu nhiều so với nhu cầu thực tế. Chất lượng dịch vụ, công tác quản lý sử dụng chung cư ở một số dự án nhà ở còn nhiều bất cập.
Thứ sáu, lượng hàng tồn kho BĐS tuy đã giảm nhiều nhưng vẫn còn khá lớn, nhiều dự án xa trung tâm, thiếu hạ tầng đồng bộ vẫn không bán được hàng. Việc huy động nguồn lực để triển khai các chương trình phát triển nhà ở xã hội còn hạn chế, thiếu loại hình nhà ở cho thuê, tốc độ giản ngân gói 30 nghìn tỷ đồng chậm, số lượng dự án nhà ở xã hội được vay vốn ưu đãi còn thấp so với nhu cầu, việc chuyển đổi từ nhà ở thương mại sang nhà ở xã hội còn chậm.
Thứ bảy, việc quản lý khai thác tài nguyên để sản xuất vật liệu xây dựng chưa chặt chẽ, gây lãng phí tài nguyên. Quy hoạch phát triển vật liệu xây dựng chậm được xây dựng hoặc điều chỉnh ảnh hưởng đến việc quản lý, khai thác vật liệu xây dựng.
Thứ tám, tiến trình thực hiện tái cơ cấu doanh nghiệp còn chậm. Năng lực tài chính, khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong ngành xây dựng còn hạn chế. Hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp trong ngành xây dựng chưa cao. Hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước ngành xây dựng chưa cao, Tỷ suất lợi nhuận/vốn chủ sở hữu đạt thấp.
Thứ nhất là chất lượng một số công trình còn thấp, tình trạng chậm tiến độ thi công, nợ đọng kéo dài trong đầu tư xây dựng, làm giảm hiệu quả sử dụng vốn đầu tư.
Thứ hai, công tác thẩm định, phê duyệt quy hoạch xây dựng ở một số địa phương còn chậm, nhất là quy hoạch phân khu, quy hoạch chi tiết, thiết kế đô thị, dẫn đến hạn chế tốc độ đầu tư. Chất lượng một số đồ án quy hoạch còn hạn chế, công tác quản lý xây dựng theo quy hoạch còn nhiều bất cập.
Thứ ba, việc triển khai thực hiện Nghị định 11/2013/NĐ ở nhiều địa phương chưa thật tích cực, chưa xem xét phê duyệt các khu vực phát triển đô thị, chưa thành lập các ban quản lý khu vực phát triển đô thị. Nhiều đô thị đã được phân loại, mở rộng quy mô nhưng chậm rà soát, điều chỉnh quy hoạch chung.
Thứ tư, việc đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội đô thị tại một số địa phương còn chậm và thiếu đồng bộ, Các chuyên ngành hạ tầng kỹ thuật chậm được phê duyệt, tình hình triển khai các quy hoạch còn chậm.
Thứ năm, công tác phát triển nhà ở xã hội tại một số địa phương chưa thực sự được quan tâm đúng mức, chưa thu hút được nhiều doanh nghiệp tham gia đầu tư, nguồn cung nhà ở xã hội còn thiếu nhiều so với nhu cầu thực tế. Chất lượng dịch vụ, công tác quản lý sử dụng chung cư ở một số dự án nhà ở còn nhiều bất cập.
Thứ sáu, lượng hàng tồn kho BĐS tuy đã giảm nhiều nhưng vẫn còn khá lớn, nhiều dự án xa trung tâm, thiếu hạ tầng đồng bộ vẫn không bán được hàng. Việc huy động nguồn lực để triển khai các chương trình phát triển nhà ở xã hội còn hạn chế, thiếu loại hình nhà ở cho thuê, tốc độ giản ngân gói 30 nghìn tỷ đồng chậm, số lượng dự án nhà ở xã hội được vay vốn ưu đãi còn thấp so với nhu cầu, việc chuyển đổi từ nhà ở thương mại sang nhà ở xã hội còn chậm.
Thứ bảy, việc quản lý khai thác tài nguyên để sản xuất vật liệu xây dựng chưa chặt chẽ, gây lãng phí tài nguyên. Quy hoạch phát triển vật liệu xây dựng chậm được xây dựng hoặc điều chỉnh ảnh hưởng đến việc quản lý, khai thác vật liệu xây dựng.
Thứ tám, tiến trình thực hiện tái cơ cấu doanh nghiệp còn chậm. Năng lực tài chính, khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong ngành xây dựng còn hạn chế. Hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp trong ngành xây dựng chưa cao. Hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước ngành xây dựng chưa cao, Tỷ suất lợi nhuận/vốn chủ sở hữu đạt thấp.
Hà Phương