[Họp Quốc hội] Việt Nam phải có ý thức “tốt nghiệp” ODA
Việt Nam phải có nhận thức đúng về ODA vì sau khi Việt Nam thoát khỏi nhóm nước có thu nhập thấp, ưu đãi giảm đi, các điều kiện vay và trả nợ khắc nghiệt hơn ...
Trong buổi thảo luận sáng nay (ngày 30/10/2014) bà Lê Thị Nga đại biểu tỉnh Thái Nguyên đã có ý kiến về tập trung quản lý, sử dụng nguồn vốn ODA.
ODA là nguồn hỗ trợ phát triển chính thức, đến nay ngoại trừ một tỷ lệ nhỏ nguồn ODA viện trợ không hoàn lại thì phần nhiều ODA của Việt Nam là cho vay ưu đãi có điều kiện.
Qua hơn 20 năm thì Việt Nam đã thu hút khoảng 78 tỷ USD, bình quân khoảng 3 tỷ USD/năm. Chính phủ đã rất nỗ lực và kết quả là nguồn vốn này đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội, nhiều chương trình – dự án đạt chất lượng tốt.
Tuy nhiên, thực tế đã phát sinh nhiều bất cập, thậm chí là vi phạm vào tội phạm gây thất thoát, tham nhũng trong nhiều dự án gây ảnh hưởng đến chất lượng công trình và làm mất uy tín đối với Việt Nam đối với các nhà tài trợ quốc tế.
Điển hình là vụ PM18, vụ Huỳnh Ngọc Sĩ, vụ nghi vấn tham nhũng trong dự án viện trợ của Đan Mạch,…
Đại biểu này đáng lưu ý là dù có nhiều giám sát nhưng chỉ được phát hiện qua đối tác nước ngoài.
Nguyên nhân, hành lang pháp lý thì ODA chủ yếu được điều chỉnh qua Nghị định 38 NĐ- CP năm 2013 và Quyết định của Thủ tướng, hướng dẫn của các bộ ngành, địa phương và quy định của nhà tài trợ… các quy định này còn phức tạp, phân tán, hiệu lực pháp lý thấp. Việc đảm bảo công khai minh bạch và trách nhiệm giải trình mới chỉ mang tính nguyên tắc mà chưa được cụ thể hóa vào hết quy trình của ODA dẫn đến chưa giảm được tình trạng xin cho, cò, tham nhũng.
Đặc biệt, vị đại biểu này đã chỉ ra hai điểm yếu cơ bản là: Trước hết, Quốc hội – cơ quan chịu trách nhiệm cao nhất về nợ công và người dân – người phải đóng thuế và là người trả nợ cuối cùng- đã gần như đứng ngoài quy trình về ODA.
Do đó, bà Nga đề nghị Quốc hội ban hành Luật quản lý sử dụng ODA, theo đó quy định tiêu chí chặt chẽ vốn ODA, công khai minh bạch toàn bộ số vốn, công khai các dự án và quy trình phân bổ buộc phản biện độc lập trước khi quyết định, quy định trách nhiệm của Quốc hội, quyền của người dân, mặt trận tổ quốc, báo chí và các bộ ban ngành trong quá trình tiếp nhận và triển khai vốn ODA.
Thứ hai, về giám sát của Quốc hội, với tư cách là một phần của đầu tư công và nợ công lại tác động đến uy tín quốc gia nhưng nhiều năm qua trách nhiệm giám sát ODA của Quốc hội chưa được thực hiện.
“Thực tế 20 năm qua xảy ra nhiều vụ gây chấn động dư luận nhưng Quốc hội chưa một lần giám sát tối cao về ODA”.
Vào các năm 1999 và 2003 Ủy ban Đối ngoại Quốc hội có 2 lần giám sát. Năm 2006 khi xảy ra vụ MP18 Ủy ban Đối ngoại Quốc hội một lần nữa báo cáo lại các kiến nghị của lần trước nhưng đáng tiếc các kiến nghị này đến nay vẫn chưa được tiếp thu đầy đủ.
Đây là nguyên nhân không nhỏ góp phần làm cho những bất cập, sai phạm trong dùng ODA chưa được khắc phục góp phần đẩy nợ công lên ngưỡng sát mất an toàn.
Đại biểu này kiến nghị, Quốc hội tiến hành giám sát ODA, chỉ ra những khiếm khuyết trong chính sách, những nhóm lợi ích ở cả trong nước và nước tài trợ phân tích những mặt lợi và mặt bất lợi từ đó đề suất chiến lược sử dụng có chọn lọc theo lộ trình giảm dần tiến đến chấm dứt vay vốn ODA.
Về lĩnh vực ưu tiên sử dụng vốn ODA, đại biểu cho rằng đây là quy định quan trọng để kiểm soát được hiệu quả tiền vay nhưng Điều 7 của Nghị định 38 đã quy định quá rộng, ưu tiên hầu hết các lĩnh vực lĩnh vực kinh tế - xã hội, bên cạnh đó còn có quy định quét tùy ghi tại khoản 9 là “một số các lĩnh vực khác”… Chính quy định này đã dẫn đến tình trạng phân bổ vốn ODA dàn trải, thiếu trọng tâm trọng điểm đồng thời cũng không tạo được động lực cho nội lực.
Đại biểu cũng cho rằng, Việt Nam cũng phải có nhận thức đúng về ODA và không nên coi thường những khuyến cáo của chuyên gia. Vì sau khi Việt Nam thoát khỏi nhóm nước có thu nhập thấp thì ưu đãi giảm đi, các điều kiện vay và trả nợ khắc nghiệt hơn nên nếu lạm dụng ODA thì sẽ để lại nhiều hệ lụy.
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh cũng đã từng phải thừa nhận rằng, có một bộ phận không nhỏ cán bộ và người dân và đặc biệt là lãnh đạo địa phương hiểu sơ đẳng rằng ODA là cho không, vay được càng nhiều càng tốt, bất chấp khả năng trả nợ…
Bà Nga cho rằng, đây là vấn đề rất đang lo ngại. Nguyên nhân chủ quan thì năng lực quản trị công của nước ta còn hạn chế chưa kiểm soát được thất thoát, tham nhũng nên đã khiến nhiều dự án mặc dù vay giá rẻ nhưng đã bị đội giá lên vô cùng đắt đỏ.
Khách quan kinh nghiệm trên thế giới đã chỉ ra 3 điểm cơ bản khiến nước nhận ODA gặp bất lợi là:
Thứ nhất, nước tài trợ tạo ra và duy trì một nhu cầu viện trợ giả tạo như tích cực vận động và tư vấn cho nước nhận viện trợ những dự án chưa cần thiết hoặc chưa phù hợp với điều kiện của nước tiếp nhận.
Thứ hai, đòi hỏi những điều kiện đảm bảo lợi nhuận của các công ty của nước tài trợ tham gia ODA như điều kiện tư vấn, thiết kế, thi công… mặc dù nước nhận tài trợ có thể tự cung cấp hoặc mua với giá thấp hơn.
Thứ ba, xuất khẩu ô nhiễm môi trường sang nước tiếp nhận.
Đại biểu dẫn chứng kinh nghiệm thành công về sử dụng vốn ODA của Singgapore, Hàn Quốc và Thái Lan cho thấy: Tiền vay được sử dụng chặt chẽ, hiệu quả; hạ tầng khi được xây thì chất lượng tốt với tầm nhìn dài chứ không phải xây dựng trong một thời gian ngắn rồi lại phải làm lại; Chính phủ các nước này chỉ sử dùng vốn ODA vào những công trình thiết yếu để phục vụ xóa đói giảm nghèo, chú trọng hướng tới khu vực đầu tư tư nhân và xuất;Không vay để đầu tư những dự án nhỏ lẻ tràn lan, càng không vay để đầu tư những siêu dự án.
Các nước này đều đặt mục tiêu sẽ “tốt nghiệp vốn ODA” trong một tương lai không xa. Hàn Quốc dừng nhận vốn ODA sau 20 và hoàn toàn “tốt nghiệp” ODA sau 30 năm.
Từ đó, đại biểu này cũng đề nghị Việt Nam phải có ý thức “tốt nghiệp” vốn ODA thì từ đó mới luôn có ý thức nâng cao hiệu quả sử dụng tiền từ dòng vốn này.