Lạm phát 2011: Nhận diện và giải pháp
Bà Trần Thị Hằng, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê, dự báo CPI tháng 5 có thể tăng 2 – 2,5% so với tháng 4.
Theo
số liệu của Tổng cục Thống kê, tính đến tháng 4/2011, chỉ số giá tiêu
dùng (CPI) của Việt Nam đã tăng tới 9,64%, đã cao hơn mục tiêu kiềm chế ở
7% mà Quốc hội thông qua đầu năm.
Diễn biến phức tạp của lạm phát đang tác động đến đời sống thường ngày của người dân, đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, cũng như gây khó khăn đối với kinh tế vĩ mô. Đây cũng là một vấn đề trọng tâm mà Chính phủ đang tâm trung theo dõi, nghiên cứu để tiếp tục thực hiện các giải pháp điều hành.
Nhằm tạo thông tin đa chiều, góp phần định hướng thông tin tới công chúng, từ 14h - 16h30 chiều thứ Sáu, ngày 6/5/2011, VnEconomy tổ chức buổi giao lưu trực tuyến với chủ đề: “Lạm phát 2011: Nhận diện và giải pháp”.
Buổi giao lưu này là diễn đàn chia sẻ thông tin, trao đổi quan điểm giữa lãnh đạo cơ quan chức năng cùng các chuyên gia uy tín với bạn đọc trong và ngoài nước về thực tiễn của lạm phát tại Việt Nam, xu hướng và các giải pháp theo định hướng mà Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/2/2011 của Chính phủ đã đề ra.
Các diễn giả tham gia buổi giao lưu gồm:
- Bà Trần Thị Hằng, Phó tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê
- Ông Nguyễn Đình Cung, Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu và Quản lý kinh tế Trung ương
- Ông Huỳnh Thế Du, Chuyên gia độc lập, Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Sau đây là những nội dung chính của cuộc giao lưu trực tuyến.
Diễn biến phức tạp của lạm phát đang tác động đến đời sống thường ngày của người dân, đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, cũng như gây khó khăn đối với kinh tế vĩ mô. Đây cũng là một vấn đề trọng tâm mà Chính phủ đang tâm trung theo dõi, nghiên cứu để tiếp tục thực hiện các giải pháp điều hành.
Nhằm tạo thông tin đa chiều, góp phần định hướng thông tin tới công chúng, từ 14h - 16h30 chiều thứ Sáu, ngày 6/5/2011, VnEconomy tổ chức buổi giao lưu trực tuyến với chủ đề: “Lạm phát 2011: Nhận diện và giải pháp”.
Buổi giao lưu này là diễn đàn chia sẻ thông tin, trao đổi quan điểm giữa lãnh đạo cơ quan chức năng cùng các chuyên gia uy tín với bạn đọc trong và ngoài nước về thực tiễn của lạm phát tại Việt Nam, xu hướng và các giải pháp theo định hướng mà Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/2/2011 của Chính phủ đã đề ra.
Các diễn giả tham gia buổi giao lưu gồm:
- Bà Trần Thị Hằng, Phó tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê
- Ông Nguyễn Đình Cung, Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu và Quản lý kinh tế Trung ương
- Ông Huỳnh Thế Du, Chuyên gia độc lập, Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Sau đây là những nội dung chính của cuộc giao lưu trực tuyến.
Nguyễn Việt Tiến - tiennv@gmail.com:
Xin đặt câu hỏi đến với anh Huỳnh Thế Du: Lạm phát đối với Việt Nam là không mới, theo anh nguyên nhân sâu xa của lạm phát ở Việt Nam là gì?
Đặng Huyền Trang - Nữ 23 tuổi - Sinh viên:
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến lạm phát. Theo tôi nghĩ phải xác định được cái gốc, rồi mới có thể có những giải pháp cụ thể. Theo các vị thì đâu là nguyên nhân chính dẫn đến lạm phát ở Việt Nam?
Ông Huỳnh Thế Du:
Thân chào các bạn,
Nói một cách ngắn gọn, theo tôi, lạm phát ở Việt Nam là do yếu tố tiền tệ do chi tiêu công quá mức và phân bổ vốn thiên lệch ở khu vực thị trường (doanh nghiệp). Điều này có thể giải thích cụ thể như sau:
Chúng ta biết rằng lạm phát là mức tăng giá chung của cả nền kinh tế. Nguyên nhân gây ra lạm phát có thể là từ bên ngoài (khách quan) hay những vấn đề nội tại của nền kinh tế (nguyên nhân chủ quan), nhưng căn nguyên của lạm phát chính là yếu tố tiền tệ.
Điều này được hiểu một cách đơn giản qua ví dụ năm ngoái trong nền kinh tế có 100 đơn vị hàng hóa và 100 đồng tiền thì giá 1 hàng hóa là 1 tiền. Năm nay, do tăng trưởng kinh tế 10% nên nền kinh tế có 110 đơn vị hàng hóa. Do những yếu tố khác nhau (chủ yếu vẫn là việc gia tăng cung tiền của ngân hàng trung ương) mà nền kinh tế có đến 121 đơn vị tiền. Kết quả là giá 1 hàng hóa bằng 1,1 tiền hay lạm phát là 10%.
Ngoài yếu tố tiền tệ, trong ngắn hạn, lạm phát cũng có thể do cầu kéo hay chi phí đẩy. Một ví dụ đơn giản nhất của cầu kéo là những gói kích thích kinh tế của chính phủ. Với một kế hoạch chi tiêu lớn được đưa ra sẽ làm cho tổng cầu của nền kinh tế gia tăng dẫn đến mức giá gia tăng trong ngắn hạn.
Sự nóng lên bất thường của các thị trường tài sản (chứng khoán , bất động sản...) cũng có thể gây ra lạm phát cầu kéo do nhiều người trở nên giàu có bất thường sẽ gia tăng mức chi tiêu rất lớn của mình dẫn đến tăng tổng cầu của cả nền kinh tế tăng.
Đối với lạm phát chi phí đẩy, ví dụ dễ nhìn thấy nhất là do một cú sốc cung nào đó mà làm cho nguồn cung khan hiếm hay giá nguyên liệu đầu vào đột ngột tăng lên làm cho mức giá chung của cả nền kinh tế tăng lên tưc thì. Ví dụ hay được nhắc tới trogn tình huống này là cuộc khủng hoảng dầu mỏ trên thế giới ở thập niên 1970.
Tuy nhiên, nếu có chính sách tiền tệ hợp lý sao cho mức tăng cung tiền trong nền kinh tế phù hợp với mức tăng của hàng hóa thì tác động của lạm phát do cầu kéo hay chi phí đẩy sẽ không kéo dài.
Căn cứ vào những lập luận trên và số liệu thực tế sẽ thấy nguyên nhân chủ yếu gây ra lạm phát của Việt Nam không phải do các yếu tố bên ngoài. Trong thời gian qua, lạm phát của Việt Nam luôn cao hơn một cách bất thường so với các nước trong khu vực hay các đối thủ cạnh tranh cũng như các nước có điều kiện tương tự.
Ở các nước này, nhìn chung mức lạm phát luôn thấp hơn mức tăng trưởng GDP (cụ thể là hầu hết đều dưới 5%), trong khi từ năm 2004 đến nay, lạm phát ở Việt Nam luôn cao hơn tăng trưởng GDP. Cá biệt năm 2008 lên đến 23%, gấp khoảng 3 lần mức tăng GDP; năm 2010 ở mức 11,75%, gấp gần 2 lần mức tăng GDP; và chỉ mới 4 tháng đầu năm 2011 lạm phát đã gần 2 con số.
Rất khó thuyết phục để có thể nói rằng lạm phát ở Việt Nam là do các yếu tố khách quan vì nếu là bên ngoài thì hầu hết các nước cũng phải chịu tác động như nhau chứ tại sao chỉ có mình Việt Nam là cao bất thường.
Tóm lại, nguyên nhân cơ bản của lạm phát ở Việt Nam, theo tôi, chính là yếu tố tiền tệ. Mức tăng tiền quá cao so với mức tăng hàng hóa đã dẫn đến lạm phát. Nói một cách khác nguồn vốn đã không được sử dụng hiệu quả do ba nguyên nhân cơ bản sau:
Thứ nhất, do đầu tư công quá mức. Không thể phủ nhận sự cần thiết của đầu tư công. Nhưng nhà nước chỉ nền tham gia vào những lĩnh vực đem lại lợi ích lớn cho cả nền kinh tế nhưng tư nhân không có động cơ để làm hoặc làm không có hiệu quả. Trên thực tế nhà nước đã tham gia quá nhiều vào các hoạt động kinh tế và nhiều khi còn cạnh tranh và chèn lấn khu vực tư nhân. Với mức chi tiêu của khu vực công (bao gồm chi tiêu thường xuyên và chi đầu tư) trong những năm vừa qua luôn ở mức 35-40% GDP và đầu tư của nhà nước bằng khoảng 20% GDP (một nửa tổng đầu tư toàn xã hội) là một mức quá cao. Mức chi tiêu này ắt hẳn là một mảnh đất màu mỡ cho tham nhũng và những hợp đồng có nhiều ưu ái cho một số đối tượng như phân tích dưới đây.
Thứ hai, sự thiên lệch trong việc phân bổ vốn ở khu vực doanh nghiệp (khu vực thị trường). Nhìn vào nền kinh tế sẽ thấy rằng các doanh nghiệp nhà nước và một số doanh nghiệp tư nhân lớn có nhiều quan hệ đang là đối tượng dành được sự ưu ái trong việc phân bổ vốn. Câu chuyện của Vinashin đã chi tiêu hoang phí khoảng 4 tỷ đô la trong thời gian qua và hiện vẫn được khoanh nợ và tiếp tục vay vốn là một ví dụ rất điển hình của sự ưu ái dành cho các doanh nghiệp nhà nước.
Đối với một số doanh nghiệp tư nhân lớn, chúng ta thấy rằng, không ít trong số họ chủ yếu tập trung vào các hoạt động kinh doanh (nói đúng hơn là đầu cơ) các loại tài sản (bất động sản, chứng khoán ...) hay tìm kiếm tài nguyên quốc gia chứ không phải tập trung vào các hoạt động sản xuất kinh doanh tạo ra nhiều giá trị gia tăng cho nền kinh tế. Điều đáng quan tâm là hầu hết các doanh nghiệp này không chỉ có các ngân hàng hay tổ chức tài chính riêng của mình mà còn có quan hệ chặt chẽ với không ít các tổ chức tài chính ngân hàng lớn hay những mối quan hệ khác.
Điều này làm cho các khoản cho vay theo quan hệ trở nên phổ biến hơn và một phần không nhỏ nguồn vốn được đưa vào các hoạt động kinh doanh có tính đầu cơ gây rủi ro hơn là tạo ra giá trị gia tăng cho nền kinh tế. Dĩ nhiên, các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đối tượng chính giải quyết việc làm và là động lực tăng trưởng của Việt Nam trong thời gian qua đã, đang và sẽ bị chèn lấn và khó tiếp cận vốn hơn nên có thể phải thu hẹp sản xuất hay chỉ cầm cự cho qua ngày.
Thứ ba, việc theo đuổi chính sách ổn định tỷ giá đồng tiền trong bối cảnh lạm phát luôn tăng cao làm giảm sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam. Như nhiều lần tôi đã phân tích, khi lạm phát cao mà tỷ giá cứng nhắc sẽ làm cho hàng hóa của các doanh nghiệp Việt Nam (kể cả tiêu thụ trong nước và xuất khẩu) trở nên đắt đỏ hơn so với hàng nhập khẩu. Điều này làm cho một lượng hàng hóa ít hơn sẽ được sản xuất ra trong nền kinh tế Việt Nam và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam bị giảm sút.
Sự lãng phí tham nhũng trong đầu tư công cũng như sự phân bổ vốn thiệc lệch như trên còn dẫn đến một hệ lụy khác là nhiều người giàu lên bất thường có nhu cầu chi tiêu các hàng hóa xa xỉ nhập ngoại cộng với việc định giá cao đồng tiền làm cho tình trạng nhập siêu ngày một căng thẳng hơn.
Nói chung tình trạng phân bổ nguồn lực cộng với chính sách điều hành tỷ giá như trên đã dẫn đến sự mất cân bằng kép trong nền kinh tế mà nó thể hiện bởi thâm hụt thương mại, thâm hụt ngân sách luôn dai dẳng và trầm trọng hơn cùng với lạm phát luôn ở mức rất cao.
Dương Việt Anh - Nam 33 tuổi - Kinh doanh:
Lạm phát là gì? Tôi cứ nghe mà không hiểu, chỉ biết giá cả leo thang, tiền mất giá trị. Vậy nguyên nhân dẫn đến lạm phát là gì? Xin cho tôi biết để giải thích với những người trong gia đình và xung quanh tôi. Xin cảm ơn.
Bà Trần Thị Hằng:
Hiện tại, nhiều người vẫn coi chỉ số giá tiêu dùng (CPI) là lạm phát. Đúng ra, chỉ số giá tiêu dùng là một chỉ tiêu tương đối (tính theo phần trăm), phản ánh biến động về giá cả chung qua thời gian của một số lượng (hay còn gọi là "rổ") hàng hóa, dịch vụ đại diện cho tiêu dùng cuối cùng phục vụ đời sống bình thường của người dân.
Như vậy, CPI có thể tăng, hoặc giảm so với một thời kỳ gốc nào đó. Trong khi đó lạm phát là biểu hiện của việc chỉ số giá tiêu dùng tăng liên tục trong một thời gian dài và nó phản ánh sự mất cân đối, trong đó chủ yếu là mất cân đối giữa tiền và hàng.
Thiệu Ngọc Dân Thịnh - Nữ 29 tuổi - Tài chính:
Theo các diễn giả, có phải có một nguyên nhân lạm phát là do niềm tin của người dân là có lạm phát và Chính phủ sẽ không thể kiềm chế lạm phát hay không? Từ niềm tin này dẫn dắt người dân đi đến những hành vi làm cho lạm phát thật sự xảy ra...?
Ông Nguyễn Đình Cung:
Có thể nói, nguyên nhân của lạm phát thì có nhiều. Có thể phân thành hai loại, một là do nội tại của nền kinh tế và loại do bên ngoài. Đối với nền kinh tế nước ta trong mấy năm gần đây, bất ổn kinh tế vĩ mô trở thành vấn đề thường xuyên, trong đó lạm phát cao là vấn đề nổi cộm.
Theo tôi, điều đó bắt nguồn từ mô hình tăng trưởng và cách thức mà chúng ta sử dụng để đạt được mục đích tăng trưởng. Tăng trưởng của chúng ta cho đến nay chủ yếu vẫn dựa vào mở rộng đầu tư, nhưng đầu tư nhìn chung lại kém hiệu quả, nhất là đầu tư nhà nước.
Mô hình và cách thức tăng trưởng như thế hiện đã tới hạn của nó. Tuy mô hình và cách thức tăng trưởng đã tới hạn nhưng chúng ta vẫn dựa vào đó để đạt được mục tiêu tăng trưởng, do đó về ngắn hạn thì cách chủ yếu để đạt tăng trưởng đó là mở rộng đầu tư. Để mở rộng đầu tư thì chúng ta buộc phải mở rộng chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ để có đầu tư. Do đó, tốc độ tăng trưởng tín dụng, M2, thâm hụt tài khóa gia tăng, thâm hụt cán cân thanh toán gia tăng... tất cả những điều đó là nguyên nhân mang tính nội tại làm cho lạm phát của chúng ta trong mấy năm qua luôn ở mức cao và cao hơn nhiều so với các nước.
Còn đối với lạm phát hiện nay, nhất là trong tháng 3,4 và có thể các tháng tới đây, ngoài những nguyên nhân nói trên thì điều chỉnh tăng giá xăng dầu, điện, tỷ giá, các mặt hàng khác kết hợp với giá cả trên thị trường thế giới cũng tăng cao trong 2 tháng vừa qua đã tác động trực tiếp làm tăng chi phí sản xuất, cho nên tỷ lệ lạm phát trong hai tháng qua cao hơn nhiều so với cùng kỳ năm trước.
Lạm phát cao và bất ổn kinh tế vĩ mô đã làm giảm lòng tin của người dân vào đồng nội tệ, người dân kỳ vọng lạm phát sẽ còn tiếp tục tăng. Điều đó cũng là một trong những yếu tố tạo áp lực lên lạm phát, song đó không phải là nguyên nhân cơ bản gây ra lạm phát.
Nguyễn Khánh Toàn - Nam 32 tuổi - Kinh doanh:
Liệu trong tương lai Tổng cục Thống kê có tính lại cách tính chỉ số CPI không (rổ tính CPI)?
Bà Trần Thị Hằng:
Phương pháp tính chỉ số giá tiêu dùng (CPI) do Tổng cục Thống kê thực hiện từ năm 1995 cho đến nay, áp dụng đúng hướng dẫn của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam. Đây cũng là chuẩn mực quốc tế mà hầu hết các nước trên thế giới đều áp dụng.
Khi tính chỉ số giá tiêu dùng cần có hai yếu tố quan trọng, một là cơ cấu chi tiêu các nhóm hàng hóa và dịch vụ phổ biến trong tổng chi tiêu của dân cư (gọi là quyền số); hai là giá của các hàng hóa và dịch vụ đại diện được chọn để thu thập lấy giá theo từng tháng.
Quyền số CPI của hầu hết các nước trên thế giới thường được sử dụng cố định trong 4-5 năm, một số ít nước thậm chí sử dụng trong khoảng 10 năm (trong điều kiện nền kinh tế ít có biến động, hoặc những nước không có điều kiện kinh phí tổ chức điều tra tính lại cơ cấu này).
Quyền số CPI hiện nay của Việt Nam (giai đoạn 2010-2015) được tính toán và tổng hợp từ kết quả cuộc điều tra khảo sát mức sống hộ gia đình và điều tra quyền số chỉ số giá tiêu dùng, do Tổng cục Thống kê thực thiện năm 2008 và đầu 2009.
Như vậy, theo định kỳ thường xuyên thì 4-5 năm sau Tổng cục Thống kê sẽ tổ chức điều tra để tính toán lại quyền số này, đảm bảo tính phù hợp với cơ cấu chi tiêu dùng của người dân thay đổi theo thời gian, trên cơ sở phát triển kinh tế chung của đất nước và thu nhập của người dân.
Mặt khác, sau 4-5 năm áp dụng cũng cần phải tiến hành điều tra tính lại cơ cấu chi tiêu này, do việc thay đổi chủng loại và chất lượng sản phẩm, có những mặt hàng sẽ không còn được tiêu dùng phổ biến nữa, có nhiều mặt hàng mới được ưa chuộng hơn...
Duy Cường - Nam 31 tuổi - NĐT:
CPI tăng gần 10% sau 4 tháng, cao hơn mục tiêu 7% Quốc hội đề ra. Thưa các chuyên gia, các ông suy nghĩ thế nào về việc chỉ sau 4 tháng, chỉ tiêu đầu tiên mà Quốc hội đặt ra đã chính thức "hoàn thành"?
Ông Nguyễn Đình Cung:
Thực tế cho đến nay, hết tháng 4 thì tỷ lệ lạm phát so với tháng 12/2010 đã tăng 9,64%, tức là đã cao hơn 2,64 điểm % so với mục tiêu của Quốc hội đã thông qua.
Đa số ý kiến cho rằng, tỷ lệ lạm phát tháng 5 vẫn có thể ở mức tăng 2% và có thể suy giảm từ quý 3/2011. Như vậy, tỷ lệ lạm phát của năm nay chắc chắn sẽ cao hơn chỉ tiêu mà Quốc hội đã thông qua.
Liêm Lê - Nam 34 tuổi - Quản lý:
Chào ông Huỳnh Thế Du, dưới góc độ kinh tế, lãi suất hiện nay các ngân hàng đang áp dụng cho vay (bình quân 20%/năm) có những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực gì đến nền kinh tế cũng như sự phát triển xã hội?
Ông Huỳnh Thế Du:
Một mặt, lãi suất cao là kết quả của lạm phát cao và việc thắt chặt tiền tệ của Ngân Hàng Nhà nước. Lãi suất cao, đầu tư sẽ giảm do vậy sẽ giảm áp lực tăng giá trong trước mắt. Tuy nhiên, khi đầu tư giảm sẽ dẫn đến tăng trưởng giảm đó là tác động trực tiếp của lãi suất cao.
Ở đây có một vấn đề cần quan tâm là hiện tượng lựa chọn ngược và rủi ro đạo đức (tâm lý ỷ lại) khi lãi suất bị đẩy lên cao. Khi lãi suất cao, những hoạt động kinh doanh thông thường với suất sinh lợi kèm với rủi ro vừa phải không thể đi vay được vì suất sinh lợi không bù đắp được chi phí lãi vay. Chỉ những khoản đi vay có rủi ro cao kèm với suất sinh lợi cao mới có thể vay được. Hiện tượng này gọi là lựa chọn ngược.
Hơn thế, đối với những người đi vay, do lãi suất cao, để có thể bù đắp được chi phí lãi vay nên người ta có xu hướng đầu tư vào các hoạt động kinh doanh rủi ro cao hơn để mong có được một suất sinh lợi tương ứng. Đây chính là tâm lý ỷ lại hay rủi ro đạo đức.
Nếu vòng xoáy trên cứ tiếp tục thì cuối cùng hầu hết các khoản vay đều là những khoản vay có rủi ro hay không trả được nợ cao. Hậu quả là nợ xấu ngân hàng cao và đến một lúc nào đó các ngân hàng có thể mất thanh khoản kéo theo toàn hệ thống sụp đổ do hiệu ứng dây chuyền.
Nói chung, khi lãi suất cao mà nguyên nhân căn bản của nó chính là lạm phát cao kéo dài sẽ tiềm ẩn rủi ro rất lớn cho nền kinh tế. Do vậy, việc duy trì mức tăng giá hay lạm phát thấp là vấn đề cốt lõi đối với một nền kinh tế và đây cũng phải là ưu tiên hàng đầu của chính phủ song song với việc cải thiện môi trường kinh doanh.
Duy Cường - Nam 31 tuổi - NĐT:
Xin hỏi các diễn giả, đã bao giờ các ông nghe người trong gia đình than thở về giá cả leo tháng chưa. Xin cảm ơn?
Ông Huỳnh Thế Du:
Tôi không chỉ nghe người trong gia đình than thở mà còn cảm nhận được sức nóng của tốc độ tăng giá.
Mấy năm trước, tôi đổ xăng chỉ có mấy chục nghìn, nhưng lần gần đây nhất đã lên đến 107 nghìn đồng. Mấy năm trước đi xe ôm một vài km, tôi chỉ phải trả có 5 nghìn đồng, bây giờ tôi gần như không thể đi đâu bằng xe ôm với giá thấp hơn 10 nghìn.
Nguyên Lượng - Nam 30 tuổi - Phân tích đầu tư:
Xin hỏi bà Trần Thị Hằng về áp lực lạm phát trong các tháng tới và khả năng kiềm chế lạm phát về mức 11,75% của Chính phủ liệu có thực hiện được?
Bà Trần Thị Hằng:
Mặc dù Nghị quyết 11 của Chính phủ đã được các bộ, ngành và địa phương thực hiện nghiêm chỉnh và quyết liệt trong thời gian qua, và sẽ tiếp tục thực hiện trong thời gian tới với mục tiêu cắt giảm chi tiêu công cho những dự án chưa cần thiết, nhằm kiềm chế lạm phát.
Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng chỉ số giá tiêu dùng trong một vài tháng tới vẫn tăng, nhưng tốc độ tăng có thể chậm dần.
Nguyên nhân là do bất ổn chính trị tại Bắc Phi và Trung Đông, thiên tai tại Nhật Bản và một số nơi khác trên thế giới làm giá cả nhiều mặt hàng nguyên, nhiên, vật liệu quan trọng cho sản xuất tăng liên tục trong những tháng cuối năm 2010 và 4 tháng đầu năm 2011, nhất là xăng dầu, sắt thép, nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi, nguyên liệu sữa,... đã tác động đến giá đầu vào sản xuất trong nước.
Chỉ số giá nguyên nhiên vật liệu dùng cho sản xuất (đầu vào sản xuất) quý 1/2011 đã tăng 15,2% so với cùng kỳ năm 2010 và tăng 6% so với quý 4/2010, trong đó chỉ số giá đầu vào cho sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng cao nhất tới 21% so với cùng kỳ và 10% so với quý 4/2010, ảnh hưởng đến giá sản phẩm sản xuất được tiêu dùng trên thị trường.
Tuy nhiên, với điều kiện thực hiện quyết liệt Nghị quyết 11, đồng thời không có biến động lớn về giá một số nguyên, nhiên, vật liệu đầu vào quan trọng, hoặc không có bất thường lớn trên thế giới trong thời gian tới thì chỉ số giá tiêu dùng sẽ ổn định trong những tháng cuối năm và có thể giữ được mức lạm phát như năm 2010 (11,75%).
Mr Bao - Nam 26 tuổi - Đầu tư chứng khoán:
Theo các diễn giả, CPI tháng 5 dự báo sẽ tăng khoảng bao nhiêu? Giải pháp nào để hạ nhiệt lãi suất hiện nay? Kinh tế vĩ mô trong nước khi nào sẽ ổn định trở lại?
Bà Trần Thị Hằng:
Tôi chỉ nói riêng về câu hỏi dự báo CPI tháng 5/2011.
Theo tôi chỉ số giá tháng này có thể tăng khoảng 2-2,5% so với tháng trước.
Nhiều bạn đọc:
Ông Huỳnh Thế Du đánh giá thế nào về việc thắt chặt tiền tệ như hiện nay, kết quả và hệ lụy của nó?
Ông Huỳnh Thế Du:
Về
nguyên tắc, khi tiền tăng nhiều hơn mức tăng của hàng hóa dẫn đến lạm
phát thì cần phải thắt chặt tiền tệ để giảm lượng tiền trong nền kinh tế
là hoàn toàn đúng. Tuy nhiên, điều cần lưu ý là việc thắt chặt tiền tệ
cần phải đảm bảo rằng những đối tượng tạo ra nhiều giá trị gia tăng cho
nền kinh tế phải bị ít ảnh hưởng nhất để đảm bảo mức gia tăng cân đối
giữa tiền và hàng. Nhìn dưới khía cạnh này và dựa vào phân tích trên sẽ
thấy việc thắt chặt tiền tệ có thể làm cho tình trạng trở nên trầm trọng
hơn vì:
Thứ nhất, ở khu vực thị trường hay khu vực kinh doanh các doanh nghiệp vừa và nhỏ - cỗ máy tăng trưởng của Việt Nam - có thể là đối tượng chịu tác động trước tiên vì khi nguồn vốn bị giới hạn thì người bên ngoài (các doanh nghiệp vừa và nhỏ) sẽ là đối tượng bị cắt nguồn vốn trước tiên. Như vậy, ngay ở khu vực trường, mất cân đối tiền - hàng có thể trở nên trầm trọng hơn.
Thứ hai, thắt chặt tiền tệ chưa hẳn sẽ giảm được lượng tiền trong nền kinh tế. Nói chung thắt chặt tiền tệ là giảm lượng cung tiền ở khu vực thị trường với giả định là việc chi tiêu công phải tuân thủ theo những kỷ luật nghiêm ngặt nên lượng tiền trong nền kinh tế sẽ giảm. Tuy nhiên, nếu mục tiêu đầu tư vẫn chiếm khoảng 40% GDP hay mức chi tiêu của toàn xã hội không thay đổi thì việc thắt chặt tiền tệ ở khu vực thị trường có thể sẽ đẩy tiền sang khu vực chi tiêu ngân sách vì trên thực tế NHNN không thể nói không với yêu cầu từ phía Chính phủ.
Lúc này, một lần nữa, mất cân đối tiền - hàng lại trở nên nghiêm trọng hơn.
Nguyễn Văn Giàu - Nam 57 tuổi - Công chức:
Xin các chuyên gia đánh giá về các yếu tố có thể ảnh hưởng đến lạm phát năm 2011? Dường như chính sách tài khóa vẫn chưa có động thái gì, điều này ảnh hưởng thế nào đến khả năng kiềm chế lạm phát năm 2011?
Ông Nguyễn Đình Cung:
Như trên tôi đã trình bày về nguyên nhân của lạm phát. Trong năm nay, nếu Chính phủ kiên trì thắt chặt tài khóa và tiền tệ thì nguyên nhân cầu kéo lạm phát sẽ dần được loại trừ. Vì vậy, có thể nguyên nhân chủ yếu của lạm phát năm nay là do chi phí đẩy.
Tuy vậy, nếu không khởi động trên thực tế quá trình tái cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng dựa chủ yếu vào nâng cao năng suất, hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế thì nguyên nhân sâu xa của lạm phát vẫn còn nguyên, và nguy cơ lạm phát do cầu kéo (do mở rộng chính sách tài khóa và tiền tệ) sẽ quay trở lại.
Tôi cũng cho rằng, thực hiện Nghị quyết 11 của Chính phủ, chính sách tiền tệ năm nay đã có một mục tiêu khá rõ ràng, đo lường và giám sát được. Trên thực tế, các giải pháp về tiền tệ đang được thực hiện khá quyết liệt và có những kết quả bước đầu trong kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.
Còn về tài khóa thì kết quả chưa thật rõ ràng, các khoản cắt giảm đầu tư, cắt giảm chi tiêu, theo tôi vẫn mới chỉ dừng ở những con số báo cáo, có lẽ chưa cắt giảm một cách thực sự, qua đó góp phần giảm tổng cầu của nền kinh tế và giảm áp lực đối với lạm phát.
Hy vọng rằng, trong những tháng tới đây các giải pháp về tài khóa sẽ được thực hiện tốt hơn, phối hợp, bổ sung và giảm bớt gánh nặng cho chính sách tiền tệ trong việc kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Có như vậy, kết quả kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô sẽ bền vững hơn.
Bùi Huy Hoàng - Nam 37 tuổi - Thạc sỹ điều khiển:
Gần đây có một số ý kiến của chuyên gia cho rằng thắt chặt tiền tệ đã quá đủ và không cần thắt thêm nữa. Xin hỏi chúng ta đã thực sự thắt chặt tiền tệ hay chưa khi tỷ lệ dự trữ bắt buộc còn ở mức 3% trong khi Trung Quốc tăng tới 20,5%? Và chúng ta có thật sự thiếu tiền trong khi quả bóng tín dụng của ta bằng 1,2 GDP? Liệu nới lỏng tiền tệ để hạ lãi suất có phải là biện pháp để giảm lạm phát hay không như một số ý kiến chuyên gia?
Ông Huỳnh Thế Du:
Như tôi đã phân tích, nếu chỉ tập trung vào thắt chặt tiền tệ có thể làm cho tình hình nghiêm trọng hơn. Thực ra quả bóng lúc này đang ở phía chi tiêu ngân sách nhiều hơn.
Ý kiến nới lỏng tiền tệ để hạ lãi suất, giảm lạm phát là một lập luận hoàn toàn sai lầm. Nếu giải pháp này được thực hiện chẳng khác nào đổ dầu vào lửa.
Con số tín dụng bằng 1,2 lần GDP mà bạn đưa ra (theo số liệu mà tôi có được có thể là cao hơn một chút) là điều cần đặc biệt quan tâm. Những nước có mức độ phát triển như Việt Nam thì tín dụng so với GDP của họ chỉ bằng khoảng 50-80% GDP và giá trị thị trường của các doanh nghiệp niêm yết so với GDP cũng chỉ tương đương mức độ hiện tại của Việt Nam.
Tại sao tín dụng cho doanh nghiệp nhiều mà GDP lại tăng không cao? Phải chăng nợ xấu là một vấn đề có thể rất nghiêm trọng và cần được quan tâm của nền kinh tế Việt Nam?
Nguyễn Hằng Nguyệt Nga - Nữ 20 tuổi - Sinh viên:
Xin chào các vị khách mời. Xin có câu hỏi sau: Xin cho biết về nhận diện nguyên nhân của lạm phát của những tháng đầu năm 2011? Xin chân thành cám ơn!
Bà Trần Thị Hằng:
Lạm phát các tháng đầu năm 2011 có các nguyên nhân chủ yếu như sau.
Thứ nhất doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu tăng giá 2 lần (ngày 24/2 và ngày 29/3), mỗi lít xăng tăng khoảng 30%, dầu tăng khoảng 38% đã tác động trực tiếp tăng chỉ số giá nhóm giao thông vận tải và gián tiếp nhiều vòng đến hoạt động sản xuất của các lĩnh vực khác.
Nguyên nhân thứ hai là giá điện cho sản xuất và sinh hoạt cũng được điều chỉnh tăng khoảng 15,3% áp dụng từ 1/3.
Thứ ba là ảnh hưởng của tỷ giá giữa VND và USD, đồng Việt Nam mất giá mạnh trong 3 tháng đầu năm đã làm tăng giá nguyên, nhiên vật liệu nhập khẩu (trong điều kiện nước ta còn phụ thuộc quá nhiều vào nhập khẩu nguyên nhiên vật liệu từ nước ngoài để sản xuất hàng xuất khẩu và tiêu dùng trong nước). Đây là nguyên nhân chúng ta bị tăng giá kép từ giá thế giới và thay đổi tỷ giá.
Thứ tư là ảnh hưởng từ những tháng cuối năm 2010 chi đầu tư từ ngân sách và của các doanh nghiệp tăng khá nhanh làm cho lượng tiền trong lưu thông lớn.
Thứ năm là yếu tố tâm lý (cả người tiêu dùng và người bán lẻ) từ việc nhà nước điều chỉnh tăng tiền lương tối thiểu cho khu vực doanh nghiệp nhà nước và khu vực hành chính sự nghiệp từ 1/1 và 1/5/2011.
Nguyễn Hùng - Nam 42 tuổi - Công chức:
Xin cảm ơn VnEconomy đã đưa ra chủ đề đang rất nóng bỏng và có nhiều vấn đề cần được phân tích, giải đáp. Tôi xin hỏi các diễn giả một số câu. 1. Xin hỏi bà Trần Thị Hằng, mong bà trả lời thật lòng: trong những thời điểm nóng bỏng và nhạy cảm, Tổng cục có bị áp lực nào đó về "làm đẹp" chỉ số CPI không? 2. Xin hỏi hai chuyên gia Nguyễn Đình Cung và Huỳnh Thế Du: Có khi nào các ông nghi ngờ về các con số CPI được công bố không? Kính chúc các ông bà sức khỏe.
Bà Trần Thị Hằng:
Những số liệu thống kê về kinh tế xã hội nói chung và chỉ số giá tiêu dùng nói riêng của Tổng cục Thống kê từ trước đến nay luôn giữ được tính khách quan và độc lập.
Tất cả số liệu của Tổng cục Thống kê đều được thu thập và phản ánh đúng thực tế tình hình kinh tế xã hội của đất nước.
Chưa bao giờ Tổng cục Thống kê chịu áp lực "làm đẹp con số" như bạn nói. Các nhà lãnh đạo luôn luôn tôn trọng và sử dụng số liệu thống kê trong công tác xây dựng và đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch kinh tế xã hội của các cấp.
Hà - 37 tuổi:
Chính phủ đang thực hiện cắt giảm đầu tư công, theo các ông như vậy có giải quyết được vấn đề lạm phát không khi mà hiệu quả của đầu tư công là rất thấp? Giải pháp là gì?
Ông Nguyễn Đình Cung:
Như chúng ta đều biết, cắt giảm đầu tư nhà nước, cắt giảm chi tiêu ngân sách, giảm thâm hụt ngân sách là một trong số các giải pháp cơ bản để kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.
Như trên tôi đã trình bày, nguyên nhân sâu xa của lạm phát là hiệu quả đầu tư, nhất là đầu tư nhà nước còn thấp. Còn mở rộng tài khóa, làm tăng tổng cầu là một trong những nguyên nhân trực tiếp. Vì vậy, nếu chỉ cắt giảm đầu tư mà chưa có những giải pháp đổi mới quản lý, cơ cấu lại và nâng cao hiệu quả đầu tư thì mới chỉ giải quyết được nguyên nhân trước mắt mà chưa khắc phục được nguyên nhân cơ bản của nó.
Vì vậy, theo tôi đồng thời với việc rà soát, cắt giảm đầu tư như hiện nay đang làm ở các bộ, ngành và các địa phương thì Chính phủ cần đồng thời nghiên cứu, xây dựng để trong một hai năm tới đây sẽ thực hiện một cơ chế mới về phân bổ, quản lý, sử dụng vốn đầu tư nhà nước, trong đó mục tiêu cơ bản là nâng cao hiệu quả của đầu tư nhà nước nói chung và của từng dự án nói riêng.
Đây có lẽ cũng là một trong những nhiệm vụ chủ yếu của tái cơ cấu kinh tế và chuyển đổi mô hinh tăng trưởng như Nghị quyết Đại hội XI của Đảng đã đề ra.
Nguyễn Hữu Thắng - Nam 52 tuổi - Giảng viên:
Xin hỏi ông Huỳnh Thế Du, nếu lạm phát ở Việt Nam chỉ do nguyên nhân tiền tệ thì tại sao CPI cao nhất vào tháng hai (trung bình 10 năm qua là 2,17%) và tháng Giêng (trung bình 10 năm qua là 1,25%)? Việt Nam chưa bao giờ thắt chặt về tiền tệ (thể hiện mức tăng M2 chưa bao giờ thấp hơn 20%/ năm). Ông nghĩ gì về điều này?
Ông Huỳnh Thế Du:
Tôi xin trả lời hai câu hỏi của ông Thắng như sau:
Thứ nhất, đối với vấn đề lạm phát. Như tôi đã phân tích, yếu tố tiền tệ vẫn là căn nguyên của lạm phát, nhưng ở một số thời điểm nhất định (ngắn hạn) còn yếu tố cầu kéo và chi phí đẩy. Ở Việt Nam, mức tăng giá hàng năm vào tháng 1 và tháng 2 thường tăng cao là rơi vào dịp tết âm lịch, khi đó mức cầu của hầu hết các loại hàng hóa tiêu dùng đều cao hơn mức cung có (cho dù đã được chuẩn bị sẵn) nên ở thời điểm này giá tăng cao hơn bình thường.
Như vậy, việc tăng giá theo mùa vụ này chính là do cầu kéo. Điều này không chỉ đúng ở Việt Nam mà còn đúng ở các nước khác trong các mùa lễ hội như các nước phương Tây vào tháng 11-12 hay Trung Quốc vào tháng 1-2. Tuy nhiên, cần phải lưu ý rằng, nếu cung tiền không tăng quá nhiều thì qua những thời điểm mùa vụ này giá sẽ được điều chỉnh và mức tăng giá của cả năm sẽ không quá cao.
Thứ hai, đối với vấn đề thắt chặt tiền tệ: Ông đúng và đó là nguyên nhân dẫn đến lạm phát cao.
Phạm Việt Dũng - Nam 54 tuổi - Lao động tự do:
Gửi tới bà Trần Thị Hằng! Các số liệu thống kê là dữ liệu “đầu vào” của mọi giải pháp kinh tế. Dữ liệu vào thiếu chính xác tất yếu các chính sách điều hành ít, thậm chí không có hiệu quả. Để có kết quả thống kê chính xác đương nhiên phải dựa vào báo cáo tổng hợp của các ban ngành, cơ quan, tập đoàn kinh tế các cấp. Xin hỏi: Với tư cách Phó tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê, bà đã hài lòng với sự chân thực và mức độ chính xác của các báo cáo nói trên chưa? Nếu chưa, bà và cơ quan Tổng cục đã vận dụng những biện pháp gì để khắc phục bất cập này? Nếu chưa và theo bà, cơ quan Chính phủ nên đưa ra những giải pháp như thế nào để khắc phục? Xin cảm ơn!
Bà Trần Thị Hằng:
Nguồn số liệu đầu vào của Tổng cục Thống kê hiện nay được thu thập chủ yếu từ các nguồn sau:
- Một là chế độ báo cáo thống kê định kỳ (tháng, quý, năm) áp dụng đối với các cơ quan hành chính sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
- Hai là thông qua tổng điều tra/điều tra đối với doanh nghiệp ngoài nhà nước, hộ gia đình, các cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể và các tổ chức hiệp hội ngoài nhà nước khác.
- Ba là nguồn hồ sơ hành chính.
- Ngoài ra, Tổng cục Thống kê cũng sử dụng thêm nguồn số liệu từ các tổ chức quốc tế, cũng như các nước đối tác để so sánh, đối chiếu và bổ sung.
Như vậy, chất lượng của số liệu thống kê sẽ phụ thuộc nhiều vào chất lượng của báo cáo cũng như chất lượng cung cấp thông tin cho các cuộc tổng điều tra/điều tra.
Với số liệu hiện nay, chúng tôi hoàn toàn có thể khẳng định rằng đã phản ánh đúng bản chất và xu hướng của các hoạt động kinh tế xã hội hiện nay, và các số liệu thống kê này đã đảm bảo được tính kịp thời với chất lượng ngày càng được nâng cao, phục vụ cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo và điều hành của các cơ quan tổ chức Đảng, Nhà nước ở các cấp.
Tất nhiên, chúng tôi vẫn mong muốn số liệu thống kê cần phải đạt được độ chính xác, tính đầy đủ và kịp thời cao hơn nữa. Chính vì vậy, lãnh đạo Tổng cục Thống kê luôn xác định một trong những mục tiêu của ngành là phấn đấu để thông tin thống kê kinh tế xã hội tiến tới đạt chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế trong thời gian tới.
Để đạt được mục tiêu này, Tổng cục Thống kê đang khẩn trương triển khai thực hiện Quyết định 312 ngày 2/3/2010 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án đổi mới đồng bộ các hệ thống chỉ tiêu thống kê, và đang tích cực xây dựng chiến lược phát triển thống kê giai đoạn 2010-2020 tầm nhìn 2025 trình Thủ tướng Chính phủ ban hành vào cuối quý 2/2011.
Hoàng Trọng Văn - vanhtr@yahoo.com.vn:
Đầu tư công không hiệu quả chính là nguyên nhân xâu xa gây ra lạm phát.Theo các ông điều này có chính xác không?Làm sao cắt giảm triệt để vì nó đụng chạm đến nhóm lợi ích của một vài cá nhân, tổ chức?
Ông Huỳnh Thế Du:
Đúng, đầu tư công không hiệu quả chính là nguyên nhân xâu xa gây ra lạm phát. Một trong những chìa khóa then chốt hiện nay để xử lý mất cân bằng kép của nền kinh tế hiện nay là cắt giảm chi tiêu công. Về mặt nguyên lý, những khoảng chi tiêu kém hiệu quả sẽ được cắt giảm. Tuy nhiên, tiêu chí cắt giảm và mối quan hệ là hai trở ngại rất lớn cho vấn đề này.
Thứ nhất, đối với tiêu chí cắt giảm, phân tích lợi ích - chi phí là công cụ cơ bản nhất để đưa ra quyết định. Tuy nhiên, vấn đề phức tạp ở chỗ là hầu như không ai có thể lượng hóa được chính xác các lợi ích và chi phí nên rất khó để có thể tính ra được một con số thuyết phục về lợi ích ròng của dự án. Điều này dẫn đến những lập luận vì mục tiêu an sinh, an ninh quốc phòng, ổn định xã hội trở nên phổ biến. Lúc này, quyền nằm trong tay người ra quyết định và những áp lực liên quan.
Thứ hai, cắt của người thân hay cắt của người sơ, người có tiếng nói hay không có tiếng nói là điều không hề đơn giản.
Tôi xin mượn câu chuyện sau để phân tích vấn đề này.
Thử tưởng tượng như một gia đình, nếu cần cắt giảm chi tiêu thì những khoản cần được nghĩ đến đầu tiên chính là phần trà thuốc của bố và trang điểm của mẹ chứ không phải là phần sữa cho con. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, việc cắt giảm những khoản như vậy là rất khó khăn vì bố mẹ là người có quyền lực lớn nhất trong gia đình và có vô số lý do để duy trì các khoản chi tiêu của mình.
Người bố có thể lấy lý do rằng đây là các khoản chi tiêu mang tính ngoại giao, tôi không thể mất mặt với bạn bè được nên cần phải có các khoản tiêu này trong khi bản chất là người bố đang nghiện rượu. Người mẹ có thể lý luận rằng tôi đẹp thì làm cho ông hãnh diện chứ tôi được gì đâu. Ai cũng cần cả sao mà bỏ được.
Do sự nhạy cảm trong quan hệ trong gia đình, nếu ông bố không tự nguyện bỏ rượu hay người mẹ không tự giảm bớt một vài loại mỹ phẩm đắt tiền thì việc cắt giảm dường như không thể vì hai người nể nang nhau nên chẳng ai nói ra trong khi con cái thì ai mà dám. Kết quả là rất có thể phần sữa của con bị cắt.
Do vậy, để việc cắt giảm chi tiêu công khả thi, theo tôi, Việt Nam nên áp dụng hai tiêu chí là giới hạn chi tiêu và cắt đều ở bối cảnh trước mắt.
Đối với việc giới hạn chi tiêu công, Nhà nước nên đưa ra đưa ra mục tiêu trong 5 năm tới, tổng chi tiêu công (cả đầu tư và chi tiêu thường xuyên) chỉ là 30% GDP thay vì từ 35-40% GDP như hiện nay. Với giới hạn này thì tất cả các bên sẽ ngồi lại với nhau để chia cái bánh đã được giới hạn.
Đối với việc cắt giảm trước mắt, cắt đều có lẽ là biện pháp có thể khả thi vì trong trường hợp này tất cả các khoản chi tiêu đều được cắt một tỷ lệ như nhau. Thoạt nhìn thì có vẻ phi lý và phản khoa học, nhưng do không có tiêu chí không rõ ràng, nên nếu áp dụng các tiêu chí có thể sẽ dẫn đến tình trạng khoản cần thiết nhất (sữa của con) bị cắt như phân tích ở trên. Thôi thì cứ cắt đều.
Sau một thời gian, nếu thấy những chỗ nào bất hợp lý thì có những biện pháp bổ sung thêm trong giới hạn cứng của chi tiêu 30% nêu trên.
Nguyễn Văn Giàu - Nam 57 tuổi - Công chức:
Xin các chuyên gia đánh giá về các yếu tố có thể ảnh hưởng đến lạm phát năm 2011? Dường như chính sách tài khóa vẫn chưa có động thái gì, điều này ảnh hưởng thế nào đến khả năng kiềm chế lạm phát năm 2011?
Ông Huỳnh Thế Du:
Tôi đồng tình với câu trả lời ở phía trên của ông Nguyễn Đình Cung. Như tôi đã phân tích, chìa khóa của vấn đề lạm phát bây giờ chính là thắt chặt chi tiêu ngân sách. Nếu tiền tệ cứ phải thắt chặt mãi mà chi tiêu như hiện tại thì tình trạng có thể trầm trọng hơn.
Do vậy, ưu tiên với vấn đề lạm phát bây giờ phải là cắt giảm chi tiêu ngân sách. Ngân hàng Nhà nước, có lẽ sẽ phải tập trung nhiều vào vấn đề tỷ giá vì tạm thời đang ổn, nhưng những vấn đề gây ra rắc rối cho tỷ giá vẫn còn.
Một sự chuẩn bị trước có lẽ là cần thiết.
Đỗ Duy Cường - Nam 31 tuổi - Chuyên gia độc lập:
Xin hỏi bà Trần Thị Hằng, lâu nay chúng ta mới nghe về chỉ số giá tiêu dùng, lạm phát. Nhưng điều đó mới phản ánh một phần giá cả cho đời sống nhân dân, còn chỉ số lạm phát cơ bản, chỉ số giá bán của nhà sản xuất (PPI) phản ánh nhiều hơn đời sống doanh nghiệp. Vậy Tổng cục Thống kê có kế hoạch gì cho những chỉ số nêu trên (Core Inflation v PPI)?
Bà Trần Thị Hằng:
Ngoài chỉ số giá tiêu dùng đã được thu thập, tổng hợp và công bố hàng tháng, Tổng cục Thống kê đã thu thập, tổng hợp và công bố một số chỉ số giá sản xuất quan trọng (PPI) hàng quý như: chỉ số giá nguyên, nhiên vật liệu đầu vào sản xuất; chỉ số giá bán sản phẩm của người sản xuất công nghiệp; chỉ số giá bán sản phẩm của người sản xuất nông lâm nghiệp, thủy sản; chỉ số giá cước vận tải; chỉ số giá hàng hóa xuất khẩu; chỉ số giá hàng hóa nhập khẩu.
Còn về core inflation (còn được gọi là lạm phát cơ bản), trong vài năm gần đây Tổng cục Thống kê đã phối hợp với Ngân hàng Nhà nước nghiên cứu, tính toán thử nghiệm chỉ số này, bước đầu phục vụ cho các đơn vị liên quan của Ngân hàng Nhà nước, xem xét để đánh giá việc thực hiện chính sách tiền tệ.
Tổng cục Thống kê sẽ tiếp tục phối hợp với Ngân hàng Nhà nước và các bộ, ngành liên quan nghiên cứu đầy đủ hơn về nội dung, phương pháp tính, phân tích, cũng như ý nghĩa kinh tế của loại chỉ số này để trình Thủ tướng Chính phủ.
Trần Văn Thiện - Nam 24 tuổi - Kế toán:
Kính chào quý tòa soạn và các vị khách mời! Tôi xin đặt câu hỏi với ông Nguyễn Đình Cung như sau: Gần đây tôi có theo dõi một số bài báo có đăng phát biểu của ông với đại ý một trong các nguyên nhân chính gây lạm phát ở Việt Nam là từ chính sách tài khóa, chúng ta cũng đã xác định cắt giảm chi tiêu công, vậy thì câu hỏi ở đây là: Làm thế nào để rà soát và cắt giảm đúng các dự án chưa thực sự cần thiết (chứ không phải là các dự án có chủ đầu tư yếu thế hơn, vận động kém hơn)? Và về dài hạn, làm thế nào để quản lý các khoản đầu tư công thực sự có hiệu quả?
Ông Nguyễn Đình Cung:
Gần đây, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) đã nghiên cứu xây dựng đề án “Tái cơ cấu kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng” theo hướng nâng cao năng suất, hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Chúng tôi thấy rằng, có hàng loạt các công việc cơ bản và quan trọng cần phải thực hiện. Tuy vậy, theo tôi trong số các giải pháp đó thì cần phải có sắp xếp thứ tự ưu tiên trong triển khai thực hiện. Tôi cho rằng, trong bối cảnh hiện nay ở nước ta thì cải cách nâng cao hiệu quả khu vực nhà nước (bao gồm quản lý nhà nước, ngân sách nhà nước và doanh nghiệp nhà nước) nên là điểm khởi đầu của quá trình tái cơ cấu kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng.
Như trên tôi đã nói, đồng thời với việc rà soát, cắt giảm đầu tư như hiện nay đang làm trong khuôn khổ thực hiện Nghị quyết số 11 của Chính phủ về kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội thì cần phải nghiên cứu và đổi mới cơ chế quản lý đầu tư nhà nước. Theo tôi, cơ chế quản lý mới ít nhất phải có một số nội dung cụ thể sau đây:
Một là: ban hành tiêu chí đánh giá hiệu quả kinh tế đối với đầu tư nhà nước để mức độ hiệu quả kinh tế đối với từng dự án phải đo lường được một cách cụ thể trong đề xuất, thẩm định, quyết định, kiểm tra, giám sát và đánh giá đầu tư.
Trên cơ sở đó, các dự án đầu tư có hiệu quả cao nhất sẽ được lựa chọn, từ đó đầu tư sẽ được phân bổ và sử dụng một cách tập trung hơn; kiểm tra và giám sát đầu tư cũng sẽ thuận lợi và hiệu quả hơn.
Hai là: Thay đổi cơ chế phân cấp quản lý đầu tư. Các địa phương, các bộ vẫn có quyền chủ động xây dựng và đề xuất dự án đầu tư nhưng lựa chọn dự án đầu tư cần được thực hiện theo nguyên tắc đấu thầu công khai theo cơ chế thị trường.
Qua đó sẽ lựa chọn được các dự án đầu tư có hiệu quả kinh tế cao nhất.
Trong phân cấp, cần tính đến phát triển cơ cấu kinh tế vùng trong thẩm định lựa chọn và quyết định đầu tư để các dự án đầu tư trong cùng một vùng không cạnh tranh nhau, loại trừ lẫn nhau mà phải phối hợp và bổ sung lẫn nhau.
Ba là: Tăng cường thẩm quyền và năng lực của cơ quan chuyên trách quản lý đầu tư nhà nước.
Bốn là: Thiết lập hệ thống thông tin toàn quốc về đầu tư nhà nước, trên cơ sở đó thực hiện công khai hóa thông tin về toàn bộ đầu tư nhà nước nói chung và từng dự án đầu tư nhà nước nói riêng. Về việc này, theo tôi các thông tin sau đây cần phải được công khai hóa:
- Thông tin về dự án đầu tư như: tên dự án; mục tiêu dự án; quy mô; ngành nghề; tổng vốn, tiến độ phân bổ vốn và tiến độ thực hiện, thời hạn bắt đầu và kết thúc...
- Đơn vị hoặc cá nhân đề xuất dự án, đơn vị và cá nhân xây dựng dự án, những cơ quan và cá nhân tham gia thẩm định dự án, những lập luận ủng hộ và phản biện về dự án, báo cáo đánh giá tác động kinh tế - xã hội của dự án.
- Chủ đầu tư thực hiện dự án, những lý do hay tiêu chuẩn lựa chọn chủ đầu tư.
- Danh sách ứng viên nhà thầu và đơn vị được chọn thực hiện dự án, những tiêu chí đã được sử dụng để chọn nhà thầu thực hiện dự án.
- Tiến độ thực hiện dự án, những khó khăn mới phát sinh, chênh lệch (nếu có) giữa tiến độ thực hiện và kế hoạch, nguyên nhân, cá nhân và cơ quan chịu trách nhiệm về nhưng sai sót hay chênh lệch so với kế hoạch.
Việc rà soát, cắt giảm, bố trí cơ cấu lại và nâng cao hiệu quả đầu tư nhà nước không phải là việc giản đơn và chỉ thực hiện trong năm nay, mà là một công việc thương xuyên và lâu dài trong quá trình tái cơ cấu kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng. Cơ chế mới về quản lý đầu tư nhà nước như trình bày trên đây không chỉ áp dụng cho việc lựa chọn và quyết định đầu tư đối với những dự án đầu tư mới mà còn áp dụng để rà soát, cắt giảm và cơ cấu lại danh mục các dự án đầu tư hiện có.
Hiệp - Nam 25 tuổi - Nhân viên tài chính:
Xin hỏi ông Huỳnh Thế Du. Tôi được biết nền kinh tế Việt Nam có nhiều nét tương đồng với kinh tế Trung Quốc. Chúng ta đã áp dụng nhiều chính sách giống với nước bạn. Vậy tôi không rõ vì nguyên nhân gì mà cung tiền Việt Nam luôn cao hơn Trung Quốc rất nhiều?
Ông Huỳnh Thế Du:
Đúng là nền kinh tế Việt Nam có nhiều điểm tương đồng với kinh tế Trung Quốc và chúng ta đã áp dụng nhiều chính sách giống với Trung Quốc. Tuy nhiên, những vấn đề khác nhau cơ bản sau đây dẫn đến kết quả khác nhau.
Thứ nhất, Trung Quốc nhất quán với chủ trương định giá đồng Nhân dân tệ thấp để có lợi cho hoạt động ngoại thương. Kết quả là cùng với cách chính sách khác Trung Quốc trở thành “nhà buôn” lớn nhất thế giới, với tặng dư thương mại và dự trữ ngoại tệ lớn nhất thế giới. Hơn thế, theo thời gian đồng Nhân dân tệ tăng giá cùng với sự khẳng định sức mạnh của nền kinh tế Trung Quốc.
Thứ hai, về cơ bản Trung Quốc theo đuổi chính sách tiền tệ thận trọng (trừ chính sách mở rộng cho gói kích thích vào cuối năm 2009 và đầu 2010 mà bây giờ họ phải đang phải gánh chịu hậu quả). Kết quả của chính sách này là giá cả được giữ ở mức ổn định. Từ trường hợp của Trung Quốc, chúng ta có thể thấy rất rõ của chính sách mở rộng tiền tệ quá mức.
Thứ ba, họ cũng cổ phần hóa và niêm yết các doanh nghiệp nhà nước, nhưng bản thân các doanh nghiệp của họ có sự cạnh tranh rất lớn cùng với việc phải tuân thủ các kỷ luật thị trường khi niêm yết quốc tế nên các doanh nghiệp của họ trở nên rất mạnh.
Ở Việt Nam, nếu nhìn vào sự cạnh tranh trong ngành viễn thông, cụ thể là giữa Viettel và VNPT thì chúng ta có thể thấy hiệu quả của cạnh tranh đúng nghĩa. Rất tiếc là những ví dụ như ngành bưu chính viễn thông quá ít.
Nguyễn Minh Hải - Nam 33 tuổi - Kế toán:
Xin hỏi bà Trần Thị Hằng là cách tính CPI hàng tháng, cụ thể hơn là trong rổ hàng hóa để tính CPI thì gồm những nhóm mặt hàng nào và tỷ trọng của từng nhóm mặt hàng ấy trong rổ hàng hóa là bao nhiêu. Số liệu mà Tổng cục Thống kê có được để tính mức độ tăng giảm giá của từng nhóm hàng hóa được cập nhật trên cơ sở nào, giá tăng giảm được cập nhật hàng ngày hay tại thời điểm nào? Xin cảm ơn.
Bà Trần Thị Hằng:
Như tôi đã trả lời khi trước, "rổ" hàng hóa hiện nay của Tổng cục Thống kê gồm 572 hàng hóa và dịch vụ đại diện cho tiêu dùng phổ biến của người dân (tăng 78 mặt hàng so với giai đoạn trước), chia thành 11 nhóm lớn với quyền số như sau:
Quyền số của nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống là 39,93%; đồ uống thuốc lá là 4,03%; may mặc, mũ nón, giày dép 7,28%; nhà ở và vật liệu xây dựng 10,01%; thiết bị và đồ dùng gia đình 8,65%; thuốc và dịch vụ y tế 5,6%; giao thông 8,87%; bưu chính viễn thông 2,72%; giáo dục 5,72%; văn hóa giải trí và du lịch 3,83%; hàng hóa và dịch vụ khác 3,34%.
Phạm vi điều tra được áp dụng tại 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, cụ thể gồm 254 khu vực điều tra tương ứng với trên 3000 điểm ở cả khu vực thành thị và nông thôn.
Thời gian thu thập giá hàng hóa được tính từ ngày 15 tháng này đến 15 tháng sau, thu thập thành 3 kỳ/tháng báo cáo, vào các ngày 25, 5 và 15 hàng tháng đối với 131 mặt hàng hay biến động như lương thực, thực phẩm, ăn uống ngoài, xăng dầu, vật liệu xây dựng... Thu thập 1 kỳ/tháng đối với các mặt hàng còn lại vào ngày 5 hàng tháng.
Xin đặt câu hỏi đến với anh Huỳnh Thế Du: Lạm phát đối với Việt Nam là không mới, theo anh nguyên nhân sâu xa của lạm phát ở Việt Nam là gì?
Đặng Huyền Trang - Nữ 23 tuổi - Sinh viên:
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến lạm phát. Theo tôi nghĩ phải xác định được cái gốc, rồi mới có thể có những giải pháp cụ thể. Theo các vị thì đâu là nguyên nhân chính dẫn đến lạm phát ở Việt Nam?
Ông Huỳnh Thế Du:
Thân chào các bạn,
Nói một cách ngắn gọn, theo tôi, lạm phát ở Việt Nam là do yếu tố tiền tệ do chi tiêu công quá mức và phân bổ vốn thiên lệch ở khu vực thị trường (doanh nghiệp). Điều này có thể giải thích cụ thể như sau:
Chúng ta biết rằng lạm phát là mức tăng giá chung của cả nền kinh tế. Nguyên nhân gây ra lạm phát có thể là từ bên ngoài (khách quan) hay những vấn đề nội tại của nền kinh tế (nguyên nhân chủ quan), nhưng căn nguyên của lạm phát chính là yếu tố tiền tệ.
Điều này được hiểu một cách đơn giản qua ví dụ năm ngoái trong nền kinh tế có 100 đơn vị hàng hóa và 100 đồng tiền thì giá 1 hàng hóa là 1 tiền. Năm nay, do tăng trưởng kinh tế 10% nên nền kinh tế có 110 đơn vị hàng hóa. Do những yếu tố khác nhau (chủ yếu vẫn là việc gia tăng cung tiền của ngân hàng trung ương) mà nền kinh tế có đến 121 đơn vị tiền. Kết quả là giá 1 hàng hóa bằng 1,1 tiền hay lạm phát là 10%.
Ngoài yếu tố tiền tệ, trong ngắn hạn, lạm phát cũng có thể do cầu kéo hay chi phí đẩy. Một ví dụ đơn giản nhất của cầu kéo là những gói kích thích kinh tế của chính phủ. Với một kế hoạch chi tiêu lớn được đưa ra sẽ làm cho tổng cầu của nền kinh tế gia tăng dẫn đến mức giá gia tăng trong ngắn hạn.
Sự nóng lên bất thường của các thị trường tài sản (chứng khoán , bất động sản...) cũng có thể gây ra lạm phát cầu kéo do nhiều người trở nên giàu có bất thường sẽ gia tăng mức chi tiêu rất lớn của mình dẫn đến tăng tổng cầu của cả nền kinh tế tăng.
Đối với lạm phát chi phí đẩy, ví dụ dễ nhìn thấy nhất là do một cú sốc cung nào đó mà làm cho nguồn cung khan hiếm hay giá nguyên liệu đầu vào đột ngột tăng lên làm cho mức giá chung của cả nền kinh tế tăng lên tưc thì. Ví dụ hay được nhắc tới trogn tình huống này là cuộc khủng hoảng dầu mỏ trên thế giới ở thập niên 1970.
Tuy nhiên, nếu có chính sách tiền tệ hợp lý sao cho mức tăng cung tiền trong nền kinh tế phù hợp với mức tăng của hàng hóa thì tác động của lạm phát do cầu kéo hay chi phí đẩy sẽ không kéo dài.
Căn cứ vào những lập luận trên và số liệu thực tế sẽ thấy nguyên nhân chủ yếu gây ra lạm phát của Việt Nam không phải do các yếu tố bên ngoài. Trong thời gian qua, lạm phát của Việt Nam luôn cao hơn một cách bất thường so với các nước trong khu vực hay các đối thủ cạnh tranh cũng như các nước có điều kiện tương tự.
Ở các nước này, nhìn chung mức lạm phát luôn thấp hơn mức tăng trưởng GDP (cụ thể là hầu hết đều dưới 5%), trong khi từ năm 2004 đến nay, lạm phát ở Việt Nam luôn cao hơn tăng trưởng GDP. Cá biệt năm 2008 lên đến 23%, gấp khoảng 3 lần mức tăng GDP; năm 2010 ở mức 11,75%, gấp gần 2 lần mức tăng GDP; và chỉ mới 4 tháng đầu năm 2011 lạm phát đã gần 2 con số.
Rất khó thuyết phục để có thể nói rằng lạm phát ở Việt Nam là do các yếu tố khách quan vì nếu là bên ngoài thì hầu hết các nước cũng phải chịu tác động như nhau chứ tại sao chỉ có mình Việt Nam là cao bất thường.
Tóm lại, nguyên nhân cơ bản của lạm phát ở Việt Nam, theo tôi, chính là yếu tố tiền tệ. Mức tăng tiền quá cao so với mức tăng hàng hóa đã dẫn đến lạm phát. Nói một cách khác nguồn vốn đã không được sử dụng hiệu quả do ba nguyên nhân cơ bản sau:
Thứ nhất, do đầu tư công quá mức. Không thể phủ nhận sự cần thiết của đầu tư công. Nhưng nhà nước chỉ nền tham gia vào những lĩnh vực đem lại lợi ích lớn cho cả nền kinh tế nhưng tư nhân không có động cơ để làm hoặc làm không có hiệu quả. Trên thực tế nhà nước đã tham gia quá nhiều vào các hoạt động kinh tế và nhiều khi còn cạnh tranh và chèn lấn khu vực tư nhân. Với mức chi tiêu của khu vực công (bao gồm chi tiêu thường xuyên và chi đầu tư) trong những năm vừa qua luôn ở mức 35-40% GDP và đầu tư của nhà nước bằng khoảng 20% GDP (một nửa tổng đầu tư toàn xã hội) là một mức quá cao. Mức chi tiêu này ắt hẳn là một mảnh đất màu mỡ cho tham nhũng và những hợp đồng có nhiều ưu ái cho một số đối tượng như phân tích dưới đây.
Thứ hai, sự thiên lệch trong việc phân bổ vốn ở khu vực doanh nghiệp (khu vực thị trường). Nhìn vào nền kinh tế sẽ thấy rằng các doanh nghiệp nhà nước và một số doanh nghiệp tư nhân lớn có nhiều quan hệ đang là đối tượng dành được sự ưu ái trong việc phân bổ vốn. Câu chuyện của Vinashin đã chi tiêu hoang phí khoảng 4 tỷ đô la trong thời gian qua và hiện vẫn được khoanh nợ và tiếp tục vay vốn là một ví dụ rất điển hình của sự ưu ái dành cho các doanh nghiệp nhà nước.
Đối với một số doanh nghiệp tư nhân lớn, chúng ta thấy rằng, không ít trong số họ chủ yếu tập trung vào các hoạt động kinh doanh (nói đúng hơn là đầu cơ) các loại tài sản (bất động sản, chứng khoán ...) hay tìm kiếm tài nguyên quốc gia chứ không phải tập trung vào các hoạt động sản xuất kinh doanh tạo ra nhiều giá trị gia tăng cho nền kinh tế. Điều đáng quan tâm là hầu hết các doanh nghiệp này không chỉ có các ngân hàng hay tổ chức tài chính riêng của mình mà còn có quan hệ chặt chẽ với không ít các tổ chức tài chính ngân hàng lớn hay những mối quan hệ khác.
Điều này làm cho các khoản cho vay theo quan hệ trở nên phổ biến hơn và một phần không nhỏ nguồn vốn được đưa vào các hoạt động kinh doanh có tính đầu cơ gây rủi ro hơn là tạo ra giá trị gia tăng cho nền kinh tế. Dĩ nhiên, các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đối tượng chính giải quyết việc làm và là động lực tăng trưởng của Việt Nam trong thời gian qua đã, đang và sẽ bị chèn lấn và khó tiếp cận vốn hơn nên có thể phải thu hẹp sản xuất hay chỉ cầm cự cho qua ngày.
Thứ ba, việc theo đuổi chính sách ổn định tỷ giá đồng tiền trong bối cảnh lạm phát luôn tăng cao làm giảm sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam. Như nhiều lần tôi đã phân tích, khi lạm phát cao mà tỷ giá cứng nhắc sẽ làm cho hàng hóa của các doanh nghiệp Việt Nam (kể cả tiêu thụ trong nước và xuất khẩu) trở nên đắt đỏ hơn so với hàng nhập khẩu. Điều này làm cho một lượng hàng hóa ít hơn sẽ được sản xuất ra trong nền kinh tế Việt Nam và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam bị giảm sút.
Sự lãng phí tham nhũng trong đầu tư công cũng như sự phân bổ vốn thiệc lệch như trên còn dẫn đến một hệ lụy khác là nhiều người giàu lên bất thường có nhu cầu chi tiêu các hàng hóa xa xỉ nhập ngoại cộng với việc định giá cao đồng tiền làm cho tình trạng nhập siêu ngày một căng thẳng hơn.
Nói chung tình trạng phân bổ nguồn lực cộng với chính sách điều hành tỷ giá như trên đã dẫn đến sự mất cân bằng kép trong nền kinh tế mà nó thể hiện bởi thâm hụt thương mại, thâm hụt ngân sách luôn dai dẳng và trầm trọng hơn cùng với lạm phát luôn ở mức rất cao.
Dương Việt Anh - Nam 33 tuổi - Kinh doanh:
Lạm phát là gì? Tôi cứ nghe mà không hiểu, chỉ biết giá cả leo thang, tiền mất giá trị. Vậy nguyên nhân dẫn đến lạm phát là gì? Xin cho tôi biết để giải thích với những người trong gia đình và xung quanh tôi. Xin cảm ơn.
Bà Trần Thị Hằng:
Hiện tại, nhiều người vẫn coi chỉ số giá tiêu dùng (CPI) là lạm phát. Đúng ra, chỉ số giá tiêu dùng là một chỉ tiêu tương đối (tính theo phần trăm), phản ánh biến động về giá cả chung qua thời gian của một số lượng (hay còn gọi là "rổ") hàng hóa, dịch vụ đại diện cho tiêu dùng cuối cùng phục vụ đời sống bình thường của người dân.
Như vậy, CPI có thể tăng, hoặc giảm so với một thời kỳ gốc nào đó. Trong khi đó lạm phát là biểu hiện của việc chỉ số giá tiêu dùng tăng liên tục trong một thời gian dài và nó phản ánh sự mất cân đối, trong đó chủ yếu là mất cân đối giữa tiền và hàng.
Thiệu Ngọc Dân Thịnh - Nữ 29 tuổi - Tài chính:
Theo các diễn giả, có phải có một nguyên nhân lạm phát là do niềm tin của người dân là có lạm phát và Chính phủ sẽ không thể kiềm chế lạm phát hay không? Từ niềm tin này dẫn dắt người dân đi đến những hành vi làm cho lạm phát thật sự xảy ra...?
Ông Nguyễn Đình Cung:
Có thể nói, nguyên nhân của lạm phát thì có nhiều. Có thể phân thành hai loại, một là do nội tại của nền kinh tế và loại do bên ngoài. Đối với nền kinh tế nước ta trong mấy năm gần đây, bất ổn kinh tế vĩ mô trở thành vấn đề thường xuyên, trong đó lạm phát cao là vấn đề nổi cộm.
Theo tôi, điều đó bắt nguồn từ mô hình tăng trưởng và cách thức mà chúng ta sử dụng để đạt được mục đích tăng trưởng. Tăng trưởng của chúng ta cho đến nay chủ yếu vẫn dựa vào mở rộng đầu tư, nhưng đầu tư nhìn chung lại kém hiệu quả, nhất là đầu tư nhà nước.
Mô hình và cách thức tăng trưởng như thế hiện đã tới hạn của nó. Tuy mô hình và cách thức tăng trưởng đã tới hạn nhưng chúng ta vẫn dựa vào đó để đạt được mục tiêu tăng trưởng, do đó về ngắn hạn thì cách chủ yếu để đạt tăng trưởng đó là mở rộng đầu tư. Để mở rộng đầu tư thì chúng ta buộc phải mở rộng chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ để có đầu tư. Do đó, tốc độ tăng trưởng tín dụng, M2, thâm hụt tài khóa gia tăng, thâm hụt cán cân thanh toán gia tăng... tất cả những điều đó là nguyên nhân mang tính nội tại làm cho lạm phát của chúng ta trong mấy năm qua luôn ở mức cao và cao hơn nhiều so với các nước.
Còn đối với lạm phát hiện nay, nhất là trong tháng 3,4 và có thể các tháng tới đây, ngoài những nguyên nhân nói trên thì điều chỉnh tăng giá xăng dầu, điện, tỷ giá, các mặt hàng khác kết hợp với giá cả trên thị trường thế giới cũng tăng cao trong 2 tháng vừa qua đã tác động trực tiếp làm tăng chi phí sản xuất, cho nên tỷ lệ lạm phát trong hai tháng qua cao hơn nhiều so với cùng kỳ năm trước.
Lạm phát cao và bất ổn kinh tế vĩ mô đã làm giảm lòng tin của người dân vào đồng nội tệ, người dân kỳ vọng lạm phát sẽ còn tiếp tục tăng. Điều đó cũng là một trong những yếu tố tạo áp lực lên lạm phát, song đó không phải là nguyên nhân cơ bản gây ra lạm phát.
Nguyễn Khánh Toàn - Nam 32 tuổi - Kinh doanh:
Liệu trong tương lai Tổng cục Thống kê có tính lại cách tính chỉ số CPI không (rổ tính CPI)?
Bà Trần Thị Hằng:
Phương pháp tính chỉ số giá tiêu dùng (CPI) do Tổng cục Thống kê thực hiện từ năm 1995 cho đến nay, áp dụng đúng hướng dẫn của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam. Đây cũng là chuẩn mực quốc tế mà hầu hết các nước trên thế giới đều áp dụng.
Khi tính chỉ số giá tiêu dùng cần có hai yếu tố quan trọng, một là cơ cấu chi tiêu các nhóm hàng hóa và dịch vụ phổ biến trong tổng chi tiêu của dân cư (gọi là quyền số); hai là giá của các hàng hóa và dịch vụ đại diện được chọn để thu thập lấy giá theo từng tháng.
Quyền số CPI của hầu hết các nước trên thế giới thường được sử dụng cố định trong 4-5 năm, một số ít nước thậm chí sử dụng trong khoảng 10 năm (trong điều kiện nền kinh tế ít có biến động, hoặc những nước không có điều kiện kinh phí tổ chức điều tra tính lại cơ cấu này).
Quyền số CPI hiện nay của Việt Nam (giai đoạn 2010-2015) được tính toán và tổng hợp từ kết quả cuộc điều tra khảo sát mức sống hộ gia đình và điều tra quyền số chỉ số giá tiêu dùng, do Tổng cục Thống kê thực thiện năm 2008 và đầu 2009.
Như vậy, theo định kỳ thường xuyên thì 4-5 năm sau Tổng cục Thống kê sẽ tổ chức điều tra để tính toán lại quyền số này, đảm bảo tính phù hợp với cơ cấu chi tiêu dùng của người dân thay đổi theo thời gian, trên cơ sở phát triển kinh tế chung của đất nước và thu nhập của người dân.
Mặt khác, sau 4-5 năm áp dụng cũng cần phải tiến hành điều tra tính lại cơ cấu chi tiêu này, do việc thay đổi chủng loại và chất lượng sản phẩm, có những mặt hàng sẽ không còn được tiêu dùng phổ biến nữa, có nhiều mặt hàng mới được ưa chuộng hơn...
Duy Cường - Nam 31 tuổi - NĐT:
CPI tăng gần 10% sau 4 tháng, cao hơn mục tiêu 7% Quốc hội đề ra. Thưa các chuyên gia, các ông suy nghĩ thế nào về việc chỉ sau 4 tháng, chỉ tiêu đầu tiên mà Quốc hội đặt ra đã chính thức "hoàn thành"?
Ông Nguyễn Đình Cung:
Thực tế cho đến nay, hết tháng 4 thì tỷ lệ lạm phát so với tháng 12/2010 đã tăng 9,64%, tức là đã cao hơn 2,64 điểm % so với mục tiêu của Quốc hội đã thông qua.
Đa số ý kiến cho rằng, tỷ lệ lạm phát tháng 5 vẫn có thể ở mức tăng 2% và có thể suy giảm từ quý 3/2011. Như vậy, tỷ lệ lạm phát của năm nay chắc chắn sẽ cao hơn chỉ tiêu mà Quốc hội đã thông qua.
Liêm Lê - Nam 34 tuổi - Quản lý:
Chào ông Huỳnh Thế Du, dưới góc độ kinh tế, lãi suất hiện nay các ngân hàng đang áp dụng cho vay (bình quân 20%/năm) có những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực gì đến nền kinh tế cũng như sự phát triển xã hội?
Ông Huỳnh Thế Du:
Một mặt, lãi suất cao là kết quả của lạm phát cao và việc thắt chặt tiền tệ của Ngân Hàng Nhà nước. Lãi suất cao, đầu tư sẽ giảm do vậy sẽ giảm áp lực tăng giá trong trước mắt. Tuy nhiên, khi đầu tư giảm sẽ dẫn đến tăng trưởng giảm đó là tác động trực tiếp của lãi suất cao.
Ở đây có một vấn đề cần quan tâm là hiện tượng lựa chọn ngược và rủi ro đạo đức (tâm lý ỷ lại) khi lãi suất bị đẩy lên cao. Khi lãi suất cao, những hoạt động kinh doanh thông thường với suất sinh lợi kèm với rủi ro vừa phải không thể đi vay được vì suất sinh lợi không bù đắp được chi phí lãi vay. Chỉ những khoản đi vay có rủi ro cao kèm với suất sinh lợi cao mới có thể vay được. Hiện tượng này gọi là lựa chọn ngược.
Hơn thế, đối với những người đi vay, do lãi suất cao, để có thể bù đắp được chi phí lãi vay nên người ta có xu hướng đầu tư vào các hoạt động kinh doanh rủi ro cao hơn để mong có được một suất sinh lợi tương ứng. Đây chính là tâm lý ỷ lại hay rủi ro đạo đức.
Nếu vòng xoáy trên cứ tiếp tục thì cuối cùng hầu hết các khoản vay đều là những khoản vay có rủi ro hay không trả được nợ cao. Hậu quả là nợ xấu ngân hàng cao và đến một lúc nào đó các ngân hàng có thể mất thanh khoản kéo theo toàn hệ thống sụp đổ do hiệu ứng dây chuyền.
Nói chung, khi lãi suất cao mà nguyên nhân căn bản của nó chính là lạm phát cao kéo dài sẽ tiềm ẩn rủi ro rất lớn cho nền kinh tế. Do vậy, việc duy trì mức tăng giá hay lạm phát thấp là vấn đề cốt lõi đối với một nền kinh tế và đây cũng phải là ưu tiên hàng đầu của chính phủ song song với việc cải thiện môi trường kinh doanh.
Duy Cường - Nam 31 tuổi - NĐT:
Xin hỏi các diễn giả, đã bao giờ các ông nghe người trong gia đình than thở về giá cả leo tháng chưa. Xin cảm ơn?
Ông Huỳnh Thế Du:
Tôi không chỉ nghe người trong gia đình than thở mà còn cảm nhận được sức nóng của tốc độ tăng giá.
Mấy năm trước, tôi đổ xăng chỉ có mấy chục nghìn, nhưng lần gần đây nhất đã lên đến 107 nghìn đồng. Mấy năm trước đi xe ôm một vài km, tôi chỉ phải trả có 5 nghìn đồng, bây giờ tôi gần như không thể đi đâu bằng xe ôm với giá thấp hơn 10 nghìn.
Nguyên Lượng - Nam 30 tuổi - Phân tích đầu tư:
Xin hỏi bà Trần Thị Hằng về áp lực lạm phát trong các tháng tới và khả năng kiềm chế lạm phát về mức 11,75% của Chính phủ liệu có thực hiện được?
Bà Trần Thị Hằng:
Mặc dù Nghị quyết 11 của Chính phủ đã được các bộ, ngành và địa phương thực hiện nghiêm chỉnh và quyết liệt trong thời gian qua, và sẽ tiếp tục thực hiện trong thời gian tới với mục tiêu cắt giảm chi tiêu công cho những dự án chưa cần thiết, nhằm kiềm chế lạm phát.
Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng chỉ số giá tiêu dùng trong một vài tháng tới vẫn tăng, nhưng tốc độ tăng có thể chậm dần.
Nguyên nhân là do bất ổn chính trị tại Bắc Phi và Trung Đông, thiên tai tại Nhật Bản và một số nơi khác trên thế giới làm giá cả nhiều mặt hàng nguyên, nhiên, vật liệu quan trọng cho sản xuất tăng liên tục trong những tháng cuối năm 2010 và 4 tháng đầu năm 2011, nhất là xăng dầu, sắt thép, nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi, nguyên liệu sữa,... đã tác động đến giá đầu vào sản xuất trong nước.
Chỉ số giá nguyên nhiên vật liệu dùng cho sản xuất (đầu vào sản xuất) quý 1/2011 đã tăng 15,2% so với cùng kỳ năm 2010 và tăng 6% so với quý 4/2010, trong đó chỉ số giá đầu vào cho sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng cao nhất tới 21% so với cùng kỳ và 10% so với quý 4/2010, ảnh hưởng đến giá sản phẩm sản xuất được tiêu dùng trên thị trường.
Tuy nhiên, với điều kiện thực hiện quyết liệt Nghị quyết 11, đồng thời không có biến động lớn về giá một số nguyên, nhiên, vật liệu đầu vào quan trọng, hoặc không có bất thường lớn trên thế giới trong thời gian tới thì chỉ số giá tiêu dùng sẽ ổn định trong những tháng cuối năm và có thể giữ được mức lạm phát như năm 2010 (11,75%).
Mr Bao - Nam 26 tuổi - Đầu tư chứng khoán:
Theo các diễn giả, CPI tháng 5 dự báo sẽ tăng khoảng bao nhiêu? Giải pháp nào để hạ nhiệt lãi suất hiện nay? Kinh tế vĩ mô trong nước khi nào sẽ ổn định trở lại?
Bà Trần Thị Hằng:
Tôi chỉ nói riêng về câu hỏi dự báo CPI tháng 5/2011.
Theo tôi chỉ số giá tháng này có thể tăng khoảng 2-2,5% so với tháng trước.
Nhiều bạn đọc:
Ông Huỳnh Thế Du đánh giá thế nào về việc thắt chặt tiền tệ như hiện nay, kết quả và hệ lụy của nó?
Ông Huỳnh Thế Du:
Thứ nhất, ở khu vực thị trường hay khu vực kinh doanh các doanh nghiệp vừa và nhỏ - cỗ máy tăng trưởng của Việt Nam - có thể là đối tượng chịu tác động trước tiên vì khi nguồn vốn bị giới hạn thì người bên ngoài (các doanh nghiệp vừa và nhỏ) sẽ là đối tượng bị cắt nguồn vốn trước tiên. Như vậy, ngay ở khu vực trường, mất cân đối tiền - hàng có thể trở nên trầm trọng hơn.
Thứ hai, thắt chặt tiền tệ chưa hẳn sẽ giảm được lượng tiền trong nền kinh tế. Nói chung thắt chặt tiền tệ là giảm lượng cung tiền ở khu vực thị trường với giả định là việc chi tiêu công phải tuân thủ theo những kỷ luật nghiêm ngặt nên lượng tiền trong nền kinh tế sẽ giảm. Tuy nhiên, nếu mục tiêu đầu tư vẫn chiếm khoảng 40% GDP hay mức chi tiêu của toàn xã hội không thay đổi thì việc thắt chặt tiền tệ ở khu vực thị trường có thể sẽ đẩy tiền sang khu vực chi tiêu ngân sách vì trên thực tế NHNN không thể nói không với yêu cầu từ phía Chính phủ.
Lúc này, một lần nữa, mất cân đối tiền - hàng lại trở nên nghiêm trọng hơn.
Nguyễn Văn Giàu - Nam 57 tuổi - Công chức:
Xin các chuyên gia đánh giá về các yếu tố có thể ảnh hưởng đến lạm phát năm 2011? Dường như chính sách tài khóa vẫn chưa có động thái gì, điều này ảnh hưởng thế nào đến khả năng kiềm chế lạm phát năm 2011?
Ông Nguyễn Đình Cung:
Như trên tôi đã trình bày về nguyên nhân của lạm phát. Trong năm nay, nếu Chính phủ kiên trì thắt chặt tài khóa và tiền tệ thì nguyên nhân cầu kéo lạm phát sẽ dần được loại trừ. Vì vậy, có thể nguyên nhân chủ yếu của lạm phát năm nay là do chi phí đẩy.
Tuy vậy, nếu không khởi động trên thực tế quá trình tái cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng dựa chủ yếu vào nâng cao năng suất, hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế thì nguyên nhân sâu xa của lạm phát vẫn còn nguyên, và nguy cơ lạm phát do cầu kéo (do mở rộng chính sách tài khóa và tiền tệ) sẽ quay trở lại.
Tôi cũng cho rằng, thực hiện Nghị quyết 11 của Chính phủ, chính sách tiền tệ năm nay đã có một mục tiêu khá rõ ràng, đo lường và giám sát được. Trên thực tế, các giải pháp về tiền tệ đang được thực hiện khá quyết liệt và có những kết quả bước đầu trong kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.
Còn về tài khóa thì kết quả chưa thật rõ ràng, các khoản cắt giảm đầu tư, cắt giảm chi tiêu, theo tôi vẫn mới chỉ dừng ở những con số báo cáo, có lẽ chưa cắt giảm một cách thực sự, qua đó góp phần giảm tổng cầu của nền kinh tế và giảm áp lực đối với lạm phát.
Hy vọng rằng, trong những tháng tới đây các giải pháp về tài khóa sẽ được thực hiện tốt hơn, phối hợp, bổ sung và giảm bớt gánh nặng cho chính sách tiền tệ trong việc kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Có như vậy, kết quả kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô sẽ bền vững hơn.
Bùi Huy Hoàng - Nam 37 tuổi - Thạc sỹ điều khiển:
Gần đây có một số ý kiến của chuyên gia cho rằng thắt chặt tiền tệ đã quá đủ và không cần thắt thêm nữa. Xin hỏi chúng ta đã thực sự thắt chặt tiền tệ hay chưa khi tỷ lệ dự trữ bắt buộc còn ở mức 3% trong khi Trung Quốc tăng tới 20,5%? Và chúng ta có thật sự thiếu tiền trong khi quả bóng tín dụng của ta bằng 1,2 GDP? Liệu nới lỏng tiền tệ để hạ lãi suất có phải là biện pháp để giảm lạm phát hay không như một số ý kiến chuyên gia?
Ông Huỳnh Thế Du:
Như tôi đã phân tích, nếu chỉ tập trung vào thắt chặt tiền tệ có thể làm cho tình hình nghiêm trọng hơn. Thực ra quả bóng lúc này đang ở phía chi tiêu ngân sách nhiều hơn.
Ý kiến nới lỏng tiền tệ để hạ lãi suất, giảm lạm phát là một lập luận hoàn toàn sai lầm. Nếu giải pháp này được thực hiện chẳng khác nào đổ dầu vào lửa.
Con số tín dụng bằng 1,2 lần GDP mà bạn đưa ra (theo số liệu mà tôi có được có thể là cao hơn một chút) là điều cần đặc biệt quan tâm. Những nước có mức độ phát triển như Việt Nam thì tín dụng so với GDP của họ chỉ bằng khoảng 50-80% GDP và giá trị thị trường của các doanh nghiệp niêm yết so với GDP cũng chỉ tương đương mức độ hiện tại của Việt Nam.
Tại sao tín dụng cho doanh nghiệp nhiều mà GDP lại tăng không cao? Phải chăng nợ xấu là một vấn đề có thể rất nghiêm trọng và cần được quan tâm của nền kinh tế Việt Nam?
Nguyễn Hằng Nguyệt Nga - Nữ 20 tuổi - Sinh viên:
Xin chào các vị khách mời. Xin có câu hỏi sau: Xin cho biết về nhận diện nguyên nhân của lạm phát của những tháng đầu năm 2011? Xin chân thành cám ơn!
Bà Trần Thị Hằng:
Lạm phát các tháng đầu năm 2011 có các nguyên nhân chủ yếu như sau.
Thứ nhất doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu tăng giá 2 lần (ngày 24/2 và ngày 29/3), mỗi lít xăng tăng khoảng 30%, dầu tăng khoảng 38% đã tác động trực tiếp tăng chỉ số giá nhóm giao thông vận tải và gián tiếp nhiều vòng đến hoạt động sản xuất của các lĩnh vực khác.
Nguyên nhân thứ hai là giá điện cho sản xuất và sinh hoạt cũng được điều chỉnh tăng khoảng 15,3% áp dụng từ 1/3.
Thứ ba là ảnh hưởng của tỷ giá giữa VND và USD, đồng Việt Nam mất giá mạnh trong 3 tháng đầu năm đã làm tăng giá nguyên, nhiên vật liệu nhập khẩu (trong điều kiện nước ta còn phụ thuộc quá nhiều vào nhập khẩu nguyên nhiên vật liệu từ nước ngoài để sản xuất hàng xuất khẩu và tiêu dùng trong nước). Đây là nguyên nhân chúng ta bị tăng giá kép từ giá thế giới và thay đổi tỷ giá.
Thứ tư là ảnh hưởng từ những tháng cuối năm 2010 chi đầu tư từ ngân sách và của các doanh nghiệp tăng khá nhanh làm cho lượng tiền trong lưu thông lớn.
Thứ năm là yếu tố tâm lý (cả người tiêu dùng và người bán lẻ) từ việc nhà nước điều chỉnh tăng tiền lương tối thiểu cho khu vực doanh nghiệp nhà nước và khu vực hành chính sự nghiệp từ 1/1 và 1/5/2011.
Nguyễn Hùng - Nam 42 tuổi - Công chức:
Xin cảm ơn VnEconomy đã đưa ra chủ đề đang rất nóng bỏng và có nhiều vấn đề cần được phân tích, giải đáp. Tôi xin hỏi các diễn giả một số câu. 1. Xin hỏi bà Trần Thị Hằng, mong bà trả lời thật lòng: trong những thời điểm nóng bỏng và nhạy cảm, Tổng cục có bị áp lực nào đó về "làm đẹp" chỉ số CPI không? 2. Xin hỏi hai chuyên gia Nguyễn Đình Cung và Huỳnh Thế Du: Có khi nào các ông nghi ngờ về các con số CPI được công bố không? Kính chúc các ông bà sức khỏe.
Bà Trần Thị Hằng:
Những số liệu thống kê về kinh tế xã hội nói chung và chỉ số giá tiêu dùng nói riêng của Tổng cục Thống kê từ trước đến nay luôn giữ được tính khách quan và độc lập.
Tất cả số liệu của Tổng cục Thống kê đều được thu thập và phản ánh đúng thực tế tình hình kinh tế xã hội của đất nước.
Chưa bao giờ Tổng cục Thống kê chịu áp lực "làm đẹp con số" như bạn nói. Các nhà lãnh đạo luôn luôn tôn trọng và sử dụng số liệu thống kê trong công tác xây dựng và đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch kinh tế xã hội của các cấp.
Hà - 37 tuổi:
Chính phủ đang thực hiện cắt giảm đầu tư công, theo các ông như vậy có giải quyết được vấn đề lạm phát không khi mà hiệu quả của đầu tư công là rất thấp? Giải pháp là gì?
Ông Nguyễn Đình Cung:
Như chúng ta đều biết, cắt giảm đầu tư nhà nước, cắt giảm chi tiêu ngân sách, giảm thâm hụt ngân sách là một trong số các giải pháp cơ bản để kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.
Như trên tôi đã trình bày, nguyên nhân sâu xa của lạm phát là hiệu quả đầu tư, nhất là đầu tư nhà nước còn thấp. Còn mở rộng tài khóa, làm tăng tổng cầu là một trong những nguyên nhân trực tiếp. Vì vậy, nếu chỉ cắt giảm đầu tư mà chưa có những giải pháp đổi mới quản lý, cơ cấu lại và nâng cao hiệu quả đầu tư thì mới chỉ giải quyết được nguyên nhân trước mắt mà chưa khắc phục được nguyên nhân cơ bản của nó.
Vì vậy, theo tôi đồng thời với việc rà soát, cắt giảm đầu tư như hiện nay đang làm ở các bộ, ngành và các địa phương thì Chính phủ cần đồng thời nghiên cứu, xây dựng để trong một hai năm tới đây sẽ thực hiện một cơ chế mới về phân bổ, quản lý, sử dụng vốn đầu tư nhà nước, trong đó mục tiêu cơ bản là nâng cao hiệu quả của đầu tư nhà nước nói chung và của từng dự án nói riêng.
Đây có lẽ cũng là một trong những nhiệm vụ chủ yếu của tái cơ cấu kinh tế và chuyển đổi mô hinh tăng trưởng như Nghị quyết Đại hội XI của Đảng đã đề ra.
Nguyễn Hữu Thắng - Nam 52 tuổi - Giảng viên:
Xin hỏi ông Huỳnh Thế Du, nếu lạm phát ở Việt Nam chỉ do nguyên nhân tiền tệ thì tại sao CPI cao nhất vào tháng hai (trung bình 10 năm qua là 2,17%) và tháng Giêng (trung bình 10 năm qua là 1,25%)? Việt Nam chưa bao giờ thắt chặt về tiền tệ (thể hiện mức tăng M2 chưa bao giờ thấp hơn 20%/ năm). Ông nghĩ gì về điều này?
Ông Huỳnh Thế Du:
Tôi xin trả lời hai câu hỏi của ông Thắng như sau:
Thứ nhất, đối với vấn đề lạm phát. Như tôi đã phân tích, yếu tố tiền tệ vẫn là căn nguyên của lạm phát, nhưng ở một số thời điểm nhất định (ngắn hạn) còn yếu tố cầu kéo và chi phí đẩy. Ở Việt Nam, mức tăng giá hàng năm vào tháng 1 và tháng 2 thường tăng cao là rơi vào dịp tết âm lịch, khi đó mức cầu của hầu hết các loại hàng hóa tiêu dùng đều cao hơn mức cung có (cho dù đã được chuẩn bị sẵn) nên ở thời điểm này giá tăng cao hơn bình thường.
Như vậy, việc tăng giá theo mùa vụ này chính là do cầu kéo. Điều này không chỉ đúng ở Việt Nam mà còn đúng ở các nước khác trong các mùa lễ hội như các nước phương Tây vào tháng 11-12 hay Trung Quốc vào tháng 1-2. Tuy nhiên, cần phải lưu ý rằng, nếu cung tiền không tăng quá nhiều thì qua những thời điểm mùa vụ này giá sẽ được điều chỉnh và mức tăng giá của cả năm sẽ không quá cao.
Thứ hai, đối với vấn đề thắt chặt tiền tệ: Ông đúng và đó là nguyên nhân dẫn đến lạm phát cao.
Phạm Việt Dũng - Nam 54 tuổi - Lao động tự do:
Gửi tới bà Trần Thị Hằng! Các số liệu thống kê là dữ liệu “đầu vào” của mọi giải pháp kinh tế. Dữ liệu vào thiếu chính xác tất yếu các chính sách điều hành ít, thậm chí không có hiệu quả. Để có kết quả thống kê chính xác đương nhiên phải dựa vào báo cáo tổng hợp của các ban ngành, cơ quan, tập đoàn kinh tế các cấp. Xin hỏi: Với tư cách Phó tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê, bà đã hài lòng với sự chân thực và mức độ chính xác của các báo cáo nói trên chưa? Nếu chưa, bà và cơ quan Tổng cục đã vận dụng những biện pháp gì để khắc phục bất cập này? Nếu chưa và theo bà, cơ quan Chính phủ nên đưa ra những giải pháp như thế nào để khắc phục? Xin cảm ơn!
Bà Trần Thị Hằng:
Nguồn số liệu đầu vào của Tổng cục Thống kê hiện nay được thu thập chủ yếu từ các nguồn sau:
- Một là chế độ báo cáo thống kê định kỳ (tháng, quý, năm) áp dụng đối với các cơ quan hành chính sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
- Hai là thông qua tổng điều tra/điều tra đối với doanh nghiệp ngoài nhà nước, hộ gia đình, các cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể và các tổ chức hiệp hội ngoài nhà nước khác.
- Ba là nguồn hồ sơ hành chính.
- Ngoài ra, Tổng cục Thống kê cũng sử dụng thêm nguồn số liệu từ các tổ chức quốc tế, cũng như các nước đối tác để so sánh, đối chiếu và bổ sung.
Như vậy, chất lượng của số liệu thống kê sẽ phụ thuộc nhiều vào chất lượng của báo cáo cũng như chất lượng cung cấp thông tin cho các cuộc tổng điều tra/điều tra.
Với số liệu hiện nay, chúng tôi hoàn toàn có thể khẳng định rằng đã phản ánh đúng bản chất và xu hướng của các hoạt động kinh tế xã hội hiện nay, và các số liệu thống kê này đã đảm bảo được tính kịp thời với chất lượng ngày càng được nâng cao, phục vụ cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo và điều hành của các cơ quan tổ chức Đảng, Nhà nước ở các cấp.
Tất nhiên, chúng tôi vẫn mong muốn số liệu thống kê cần phải đạt được độ chính xác, tính đầy đủ và kịp thời cao hơn nữa. Chính vì vậy, lãnh đạo Tổng cục Thống kê luôn xác định một trong những mục tiêu của ngành là phấn đấu để thông tin thống kê kinh tế xã hội tiến tới đạt chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế trong thời gian tới.
Để đạt được mục tiêu này, Tổng cục Thống kê đang khẩn trương triển khai thực hiện Quyết định 312 ngày 2/3/2010 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án đổi mới đồng bộ các hệ thống chỉ tiêu thống kê, và đang tích cực xây dựng chiến lược phát triển thống kê giai đoạn 2010-2020 tầm nhìn 2025 trình Thủ tướng Chính phủ ban hành vào cuối quý 2/2011.
Hoàng Trọng Văn - vanhtr@yahoo.com.vn:
Đầu tư công không hiệu quả chính là nguyên nhân xâu xa gây ra lạm phát.Theo các ông điều này có chính xác không?Làm sao cắt giảm triệt để vì nó đụng chạm đến nhóm lợi ích của một vài cá nhân, tổ chức?
Ông Huỳnh Thế Du:
Đúng, đầu tư công không hiệu quả chính là nguyên nhân xâu xa gây ra lạm phát. Một trong những chìa khóa then chốt hiện nay để xử lý mất cân bằng kép của nền kinh tế hiện nay là cắt giảm chi tiêu công. Về mặt nguyên lý, những khoảng chi tiêu kém hiệu quả sẽ được cắt giảm. Tuy nhiên, tiêu chí cắt giảm và mối quan hệ là hai trở ngại rất lớn cho vấn đề này.
Thứ nhất, đối với tiêu chí cắt giảm, phân tích lợi ích - chi phí là công cụ cơ bản nhất để đưa ra quyết định. Tuy nhiên, vấn đề phức tạp ở chỗ là hầu như không ai có thể lượng hóa được chính xác các lợi ích và chi phí nên rất khó để có thể tính ra được một con số thuyết phục về lợi ích ròng của dự án. Điều này dẫn đến những lập luận vì mục tiêu an sinh, an ninh quốc phòng, ổn định xã hội trở nên phổ biến. Lúc này, quyền nằm trong tay người ra quyết định và những áp lực liên quan.
Thứ hai, cắt của người thân hay cắt của người sơ, người có tiếng nói hay không có tiếng nói là điều không hề đơn giản.
Tôi xin mượn câu chuyện sau để phân tích vấn đề này.
Thử tưởng tượng như một gia đình, nếu cần cắt giảm chi tiêu thì những khoản cần được nghĩ đến đầu tiên chính là phần trà thuốc của bố và trang điểm của mẹ chứ không phải là phần sữa cho con. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, việc cắt giảm những khoản như vậy là rất khó khăn vì bố mẹ là người có quyền lực lớn nhất trong gia đình và có vô số lý do để duy trì các khoản chi tiêu của mình.
Người bố có thể lấy lý do rằng đây là các khoản chi tiêu mang tính ngoại giao, tôi không thể mất mặt với bạn bè được nên cần phải có các khoản tiêu này trong khi bản chất là người bố đang nghiện rượu. Người mẹ có thể lý luận rằng tôi đẹp thì làm cho ông hãnh diện chứ tôi được gì đâu. Ai cũng cần cả sao mà bỏ được.
Do sự nhạy cảm trong quan hệ trong gia đình, nếu ông bố không tự nguyện bỏ rượu hay người mẹ không tự giảm bớt một vài loại mỹ phẩm đắt tiền thì việc cắt giảm dường như không thể vì hai người nể nang nhau nên chẳng ai nói ra trong khi con cái thì ai mà dám. Kết quả là rất có thể phần sữa của con bị cắt.
Do vậy, để việc cắt giảm chi tiêu công khả thi, theo tôi, Việt Nam nên áp dụng hai tiêu chí là giới hạn chi tiêu và cắt đều ở bối cảnh trước mắt.
Đối với việc giới hạn chi tiêu công, Nhà nước nên đưa ra đưa ra mục tiêu trong 5 năm tới, tổng chi tiêu công (cả đầu tư và chi tiêu thường xuyên) chỉ là 30% GDP thay vì từ 35-40% GDP như hiện nay. Với giới hạn này thì tất cả các bên sẽ ngồi lại với nhau để chia cái bánh đã được giới hạn.
Đối với việc cắt giảm trước mắt, cắt đều có lẽ là biện pháp có thể khả thi vì trong trường hợp này tất cả các khoản chi tiêu đều được cắt một tỷ lệ như nhau. Thoạt nhìn thì có vẻ phi lý và phản khoa học, nhưng do không có tiêu chí không rõ ràng, nên nếu áp dụng các tiêu chí có thể sẽ dẫn đến tình trạng khoản cần thiết nhất (sữa của con) bị cắt như phân tích ở trên. Thôi thì cứ cắt đều.
Sau một thời gian, nếu thấy những chỗ nào bất hợp lý thì có những biện pháp bổ sung thêm trong giới hạn cứng của chi tiêu 30% nêu trên.
Nguyễn Văn Giàu - Nam 57 tuổi - Công chức:
Xin các chuyên gia đánh giá về các yếu tố có thể ảnh hưởng đến lạm phát năm 2011? Dường như chính sách tài khóa vẫn chưa có động thái gì, điều này ảnh hưởng thế nào đến khả năng kiềm chế lạm phát năm 2011?
Ông Huỳnh Thế Du:
Tôi đồng tình với câu trả lời ở phía trên của ông Nguyễn Đình Cung. Như tôi đã phân tích, chìa khóa của vấn đề lạm phát bây giờ chính là thắt chặt chi tiêu ngân sách. Nếu tiền tệ cứ phải thắt chặt mãi mà chi tiêu như hiện tại thì tình trạng có thể trầm trọng hơn.
Do vậy, ưu tiên với vấn đề lạm phát bây giờ phải là cắt giảm chi tiêu ngân sách. Ngân hàng Nhà nước, có lẽ sẽ phải tập trung nhiều vào vấn đề tỷ giá vì tạm thời đang ổn, nhưng những vấn đề gây ra rắc rối cho tỷ giá vẫn còn.
Một sự chuẩn bị trước có lẽ là cần thiết.
Đỗ Duy Cường - Nam 31 tuổi - Chuyên gia độc lập:
Xin hỏi bà Trần Thị Hằng, lâu nay chúng ta mới nghe về chỉ số giá tiêu dùng, lạm phát. Nhưng điều đó mới phản ánh một phần giá cả cho đời sống nhân dân, còn chỉ số lạm phát cơ bản, chỉ số giá bán của nhà sản xuất (PPI) phản ánh nhiều hơn đời sống doanh nghiệp. Vậy Tổng cục Thống kê có kế hoạch gì cho những chỉ số nêu trên (Core Inflation v PPI)?
Bà Trần Thị Hằng:
Ngoài chỉ số giá tiêu dùng đã được thu thập, tổng hợp và công bố hàng tháng, Tổng cục Thống kê đã thu thập, tổng hợp và công bố một số chỉ số giá sản xuất quan trọng (PPI) hàng quý như: chỉ số giá nguyên, nhiên vật liệu đầu vào sản xuất; chỉ số giá bán sản phẩm của người sản xuất công nghiệp; chỉ số giá bán sản phẩm của người sản xuất nông lâm nghiệp, thủy sản; chỉ số giá cước vận tải; chỉ số giá hàng hóa xuất khẩu; chỉ số giá hàng hóa nhập khẩu.
Còn về core inflation (còn được gọi là lạm phát cơ bản), trong vài năm gần đây Tổng cục Thống kê đã phối hợp với Ngân hàng Nhà nước nghiên cứu, tính toán thử nghiệm chỉ số này, bước đầu phục vụ cho các đơn vị liên quan của Ngân hàng Nhà nước, xem xét để đánh giá việc thực hiện chính sách tiền tệ.
Tổng cục Thống kê sẽ tiếp tục phối hợp với Ngân hàng Nhà nước và các bộ, ngành liên quan nghiên cứu đầy đủ hơn về nội dung, phương pháp tính, phân tích, cũng như ý nghĩa kinh tế của loại chỉ số này để trình Thủ tướng Chính phủ.
Trần Văn Thiện - Nam 24 tuổi - Kế toán:
Kính chào quý tòa soạn và các vị khách mời! Tôi xin đặt câu hỏi với ông Nguyễn Đình Cung như sau: Gần đây tôi có theo dõi một số bài báo có đăng phát biểu của ông với đại ý một trong các nguyên nhân chính gây lạm phát ở Việt Nam là từ chính sách tài khóa, chúng ta cũng đã xác định cắt giảm chi tiêu công, vậy thì câu hỏi ở đây là: Làm thế nào để rà soát và cắt giảm đúng các dự án chưa thực sự cần thiết (chứ không phải là các dự án có chủ đầu tư yếu thế hơn, vận động kém hơn)? Và về dài hạn, làm thế nào để quản lý các khoản đầu tư công thực sự có hiệu quả?
Ông Nguyễn Đình Cung:
Gần đây, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) đã nghiên cứu xây dựng đề án “Tái cơ cấu kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng” theo hướng nâng cao năng suất, hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Chúng tôi thấy rằng, có hàng loạt các công việc cơ bản và quan trọng cần phải thực hiện. Tuy vậy, theo tôi trong số các giải pháp đó thì cần phải có sắp xếp thứ tự ưu tiên trong triển khai thực hiện. Tôi cho rằng, trong bối cảnh hiện nay ở nước ta thì cải cách nâng cao hiệu quả khu vực nhà nước (bao gồm quản lý nhà nước, ngân sách nhà nước và doanh nghiệp nhà nước) nên là điểm khởi đầu của quá trình tái cơ cấu kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng.
Như trên tôi đã nói, đồng thời với việc rà soát, cắt giảm đầu tư như hiện nay đang làm trong khuôn khổ thực hiện Nghị quyết số 11 của Chính phủ về kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội thì cần phải nghiên cứu và đổi mới cơ chế quản lý đầu tư nhà nước. Theo tôi, cơ chế quản lý mới ít nhất phải có một số nội dung cụ thể sau đây:
Một là: ban hành tiêu chí đánh giá hiệu quả kinh tế đối với đầu tư nhà nước để mức độ hiệu quả kinh tế đối với từng dự án phải đo lường được một cách cụ thể trong đề xuất, thẩm định, quyết định, kiểm tra, giám sát và đánh giá đầu tư.
Trên cơ sở đó, các dự án đầu tư có hiệu quả cao nhất sẽ được lựa chọn, từ đó đầu tư sẽ được phân bổ và sử dụng một cách tập trung hơn; kiểm tra và giám sát đầu tư cũng sẽ thuận lợi và hiệu quả hơn.
Hai là: Thay đổi cơ chế phân cấp quản lý đầu tư. Các địa phương, các bộ vẫn có quyền chủ động xây dựng và đề xuất dự án đầu tư nhưng lựa chọn dự án đầu tư cần được thực hiện theo nguyên tắc đấu thầu công khai theo cơ chế thị trường.
Qua đó sẽ lựa chọn được các dự án đầu tư có hiệu quả kinh tế cao nhất.
Trong phân cấp, cần tính đến phát triển cơ cấu kinh tế vùng trong thẩm định lựa chọn và quyết định đầu tư để các dự án đầu tư trong cùng một vùng không cạnh tranh nhau, loại trừ lẫn nhau mà phải phối hợp và bổ sung lẫn nhau.
Ba là: Tăng cường thẩm quyền và năng lực của cơ quan chuyên trách quản lý đầu tư nhà nước.
Bốn là: Thiết lập hệ thống thông tin toàn quốc về đầu tư nhà nước, trên cơ sở đó thực hiện công khai hóa thông tin về toàn bộ đầu tư nhà nước nói chung và từng dự án đầu tư nhà nước nói riêng. Về việc này, theo tôi các thông tin sau đây cần phải được công khai hóa:
- Thông tin về dự án đầu tư như: tên dự án; mục tiêu dự án; quy mô; ngành nghề; tổng vốn, tiến độ phân bổ vốn và tiến độ thực hiện, thời hạn bắt đầu và kết thúc...
- Đơn vị hoặc cá nhân đề xuất dự án, đơn vị và cá nhân xây dựng dự án, những cơ quan và cá nhân tham gia thẩm định dự án, những lập luận ủng hộ và phản biện về dự án, báo cáo đánh giá tác động kinh tế - xã hội của dự án.
- Chủ đầu tư thực hiện dự án, những lý do hay tiêu chuẩn lựa chọn chủ đầu tư.
- Danh sách ứng viên nhà thầu và đơn vị được chọn thực hiện dự án, những tiêu chí đã được sử dụng để chọn nhà thầu thực hiện dự án.
- Tiến độ thực hiện dự án, những khó khăn mới phát sinh, chênh lệch (nếu có) giữa tiến độ thực hiện và kế hoạch, nguyên nhân, cá nhân và cơ quan chịu trách nhiệm về nhưng sai sót hay chênh lệch so với kế hoạch.
Việc rà soát, cắt giảm, bố trí cơ cấu lại và nâng cao hiệu quả đầu tư nhà nước không phải là việc giản đơn và chỉ thực hiện trong năm nay, mà là một công việc thương xuyên và lâu dài trong quá trình tái cơ cấu kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng. Cơ chế mới về quản lý đầu tư nhà nước như trình bày trên đây không chỉ áp dụng cho việc lựa chọn và quyết định đầu tư đối với những dự án đầu tư mới mà còn áp dụng để rà soát, cắt giảm và cơ cấu lại danh mục các dự án đầu tư hiện có.
Hiệp - Nam 25 tuổi - Nhân viên tài chính:
Xin hỏi ông Huỳnh Thế Du. Tôi được biết nền kinh tế Việt Nam có nhiều nét tương đồng với kinh tế Trung Quốc. Chúng ta đã áp dụng nhiều chính sách giống với nước bạn. Vậy tôi không rõ vì nguyên nhân gì mà cung tiền Việt Nam luôn cao hơn Trung Quốc rất nhiều?
Ông Huỳnh Thế Du:
Đúng là nền kinh tế Việt Nam có nhiều điểm tương đồng với kinh tế Trung Quốc và chúng ta đã áp dụng nhiều chính sách giống với Trung Quốc. Tuy nhiên, những vấn đề khác nhau cơ bản sau đây dẫn đến kết quả khác nhau.
Thứ nhất, Trung Quốc nhất quán với chủ trương định giá đồng Nhân dân tệ thấp để có lợi cho hoạt động ngoại thương. Kết quả là cùng với cách chính sách khác Trung Quốc trở thành “nhà buôn” lớn nhất thế giới, với tặng dư thương mại và dự trữ ngoại tệ lớn nhất thế giới. Hơn thế, theo thời gian đồng Nhân dân tệ tăng giá cùng với sự khẳng định sức mạnh của nền kinh tế Trung Quốc.
Thứ hai, về cơ bản Trung Quốc theo đuổi chính sách tiền tệ thận trọng (trừ chính sách mở rộng cho gói kích thích vào cuối năm 2009 và đầu 2010 mà bây giờ họ phải đang phải gánh chịu hậu quả). Kết quả của chính sách này là giá cả được giữ ở mức ổn định. Từ trường hợp của Trung Quốc, chúng ta có thể thấy rất rõ của chính sách mở rộng tiền tệ quá mức.
Thứ ba, họ cũng cổ phần hóa và niêm yết các doanh nghiệp nhà nước, nhưng bản thân các doanh nghiệp của họ có sự cạnh tranh rất lớn cùng với việc phải tuân thủ các kỷ luật thị trường khi niêm yết quốc tế nên các doanh nghiệp của họ trở nên rất mạnh.
Ở Việt Nam, nếu nhìn vào sự cạnh tranh trong ngành viễn thông, cụ thể là giữa Viettel và VNPT thì chúng ta có thể thấy hiệu quả của cạnh tranh đúng nghĩa. Rất tiếc là những ví dụ như ngành bưu chính viễn thông quá ít.
Nguyễn Minh Hải - Nam 33 tuổi - Kế toán:
Xin hỏi bà Trần Thị Hằng là cách tính CPI hàng tháng, cụ thể hơn là trong rổ hàng hóa để tính CPI thì gồm những nhóm mặt hàng nào và tỷ trọng của từng nhóm mặt hàng ấy trong rổ hàng hóa là bao nhiêu. Số liệu mà Tổng cục Thống kê có được để tính mức độ tăng giảm giá của từng nhóm hàng hóa được cập nhật trên cơ sở nào, giá tăng giảm được cập nhật hàng ngày hay tại thời điểm nào? Xin cảm ơn.
Bà Trần Thị Hằng:
Như tôi đã trả lời khi trước, "rổ" hàng hóa hiện nay của Tổng cục Thống kê gồm 572 hàng hóa và dịch vụ đại diện cho tiêu dùng phổ biến của người dân (tăng 78 mặt hàng so với giai đoạn trước), chia thành 11 nhóm lớn với quyền số như sau:
Quyền số của nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống là 39,93%; đồ uống thuốc lá là 4,03%; may mặc, mũ nón, giày dép 7,28%; nhà ở và vật liệu xây dựng 10,01%; thiết bị và đồ dùng gia đình 8,65%; thuốc và dịch vụ y tế 5,6%; giao thông 8,87%; bưu chính viễn thông 2,72%; giáo dục 5,72%; văn hóa giải trí và du lịch 3,83%; hàng hóa và dịch vụ khác 3,34%.
Phạm vi điều tra được áp dụng tại 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, cụ thể gồm 254 khu vực điều tra tương ứng với trên 3000 điểm ở cả khu vực thành thị và nông thôn.
Thời gian thu thập giá hàng hóa được tính từ ngày 15 tháng này đến 15 tháng sau, thu thập thành 3 kỳ/tháng báo cáo, vào các ngày 25, 5 và 15 hàng tháng đối với 131 mặt hàng hay biến động như lương thực, thực phẩm, ăn uống ngoài, xăng dầu, vật liệu xây dựng... Thu thập 1 kỳ/tháng đối với các mặt hàng còn lại vào ngày 5 hàng tháng.
Theo Vneconomy