MỚI NHẤT!

Đọc nhanh >>

Sẽ khống chế tỷ lệ chi phí trả lãi tiền vay của doanh nghiệp

Dự kiến từ 1/1/2016, tỷ lệ khống chế chi phí trả lãi tiền vay vốn tương ứng với khoản vay vượt quá 5 lần vốn chủ sở hữu (5:1) đối với lĩnh vực sản xuất, vượt quá 4 lần vốn chủ sở hữu (4:1) đối với các lĩnh vực còn lại. Tỷ lệ này sẽ còn được hạ thấp xuống kể từ ngày 1/1/2019.

Lỗ vẫn không ngừng mở rộng kinh doanh

Theo Bộ Tài chính, Luật thuế TNDN hiện hành không có quy định khống chế khoản chi phí lãi tiền vay không được trừ vào chi phí đối với trường hợp khoản vay vượt quá nhiều lần vốn chủ sở hữu (tình trạng vốn mỏng, doanh nghiệp hoạt động chủ yếu dựa vào vốn đi vay, trong khi tỷ lệ vốn chủ sở hữu rất ít).

Nhưng trên thực tế, nhiều doanh nghiệp có khoản vay vốn sản xuất kinh doanh vượt gấp nhiều lần vốn chủ sở hữu đã dẫn đến nguy cơ mất an toàn tài chính của doanh nghiệp và cũng là một trong những yếu tố làm ảnh hưởng đến thu ngân sách.

Giải thích rõ hơn nội dung này, theo Bộ Tài chính, thực tế công tác quản lý thu cho thấy, vừa qua có một số doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài hoạt động trong lĩnh vực bất động sản, thương mại, dịch vụ báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh lỗ trong khi doanh thu luôn tăng trưởng qua các năm và doanh nghiệp không ngừng mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh.

Qua xem xét báo cáo tài chính của doanh nghiệp, nguyên nhân dẫn đến tình trạng lỗ của doanh nghiệp một phần do chi phí tài chính (chi phí trả lãi tiền vay vốn cho công ty mẹ ở nước ngoài) quá lớn, thậm chí có công ty chi phí trả lãi tiền vay vốn lên đến vài nghìn tỷ đồng/năm.

Thống kê sơ bộ số liệu của 57/85 tập đoàn, tổng công ty 100% vốn nhà nước thuộc bộ, UBND tỉnh về tỷ lệ vốn vay/vốn chủ sở hữu cũng cho thấy, tình hình dư nợ vay bình quân trên vốn chủ sở hữu tính đến hết năm 2014 như sau: có 2 doanh nghiệp có hệ số lớn hơn 5 (1 đơn vị xây dựng và 1 đơn vị kinh doanh xăng dầu), 6 doanh nghiệp có hệ số từ 3 đến 5 (chủ yếu là các doanh nghiệp xây dựng) và 49 doanh nghiệp có hệ số nhỏ hơn 3.

Đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI): theo số liệu tổng hợp 9.400 doanh nghiệp FDI cả nước với tổng tài sản khoảng 2.205.068 tỷ đồng (khoảng 105 tỷ USD) chiếm tỷ trọng 70% doanh nghiệp FDI cả nước còn hoạt động cho thấy, hệ số nợ/vốn chủ sở hữu chung tất cả các ngành là 1,23 lần; của ngành thương mại là 3,44 lần. Nếu xét trên chỉ tiêu vốn vay/vốn chủ sở hữu thì hệ số này của tất cả các các ngành là 0,57 lần, của ngành thương mại là 1,8 lần.

Đối với các dự án BOT nhiệt điện có vốn FDI, gồm 5 dự án đã ký hợp đồng và 17 dự án còn lại đang trong quá trình đàm phán có quy mô vốn đầu tư từ 700 triệu USD đến 2 tỷ USD/ dự án, đều đạt ngưỡng tỷ lệ nợ/vốn chủ sở hữu là 4:1, trong đó vốn vay là 1 khoản mục trong Nợ phải trả.

Sẽ khống chế chi phí trả lãi tiền vay

Cũng theo Bộ Tài chính, riêng đối với lĩnh vực tài chính, tín dụng, hiện nay Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành Thông tư số 36/2014/TT-NHNN ngày 20/11/2014 quy định các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, trong đó quy định tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu của tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài (vốn tự có/ tổng tài sản có rủi ro tối thiểu phải đạt 9%.

Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều tại các Luật về thuế dự kiến sẽ được trình Quốc hội xem xét thông qua tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa 13 (khai mạc tháng 10/2015), và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2016.

Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế cũng cho thấy, nhiều nước có quy định về vốn mỏng, theo đó lãi phải trả đối với phần vốn vay vượt quá tỷ lệ nhất định (tỷ lệ vốn vay trên vốn chủ sở hữu) không được coi là chi phí được trừ khi tính thuế TNDN.

OECD khuyến nghị áp dụng tỷ lệ vốn vay trên vốn chủ sở hữu là 3:1. Trên thực tế, đa số các nước như Đài Loan, New Zealand, Đức, Úc, Nhật Bản, Ba Lan, Hà Lan, Tây Ban Nha, Chile, Peru, Nam Phi, Bồ Đào Nha, Bra-xin quy định vốn vay của doanh nghiệp trên vốn chủ sở hữu vượt quá tỷ lệ 3:1 thì được coi là vốn mỏng.

Ở một số nước phát triển quy định tỷ lệ thấp hơn như Canada là 2:1, Pháp, Mỹ là 1,5:1, thậm chí tỷ lệ này ở Venezuela là 1:1; một số nước tỷ lệ này còn phân biệt theo đối tượng, ví dụ Trung Quốc quy định tỷ lệ 2:1 đối với doanh nghiệp thông thường, 5:1 đối với các tổ chức tài chính; Nga quy định tỷ lệ 3:1 đối với doanh nghiệp thông thường và tỷ lệ 12,5:1 đối với ngân hàng và các tổ chức tài chính; Hàn Quốc quy định tỷ lệ 3:1 nếu vay của các cổ đông nước ngoài và tỷ lệ 6:1 đối với các tổ chức tài chính.

Theo đó, phần lãi vay phải trả vượt quá tỷ lệ được coi là vốn mỏng thì không được tính vào chi phí được trừ khi tính thuế TNDN.

Từ những nghiên cứu trên, tại dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều tại các Luật về thuế đang được lấy ý kiến, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ bổ sung quy định về vốn mỏng trong nội dung sửa đổi, bổ sung Luật thuế thu nhập doanh nghiệp.

Việc bổ sung này, theo Bộ Tài chính, để đảm bảo phản ánh đúng chi phí lãi vay phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy việc tái cơ cấu kinh tế, lành mạnh hoá tài chính doanh nghiệp, chống chuyển giá và phù hợp với thực tiễn của doanh nghiệp trong bối cảnh nền kinh tế nước ta vừa bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu.

Cụ thể, Bộ Tài chính đề xuất bổ sung điểm q vào Khoản 2 Điều 9 Luật thuế TNDN số 14/2008/QH12 đã được sửa đổi, bổ sung tại Khoản 5 Điều 1 Luật thuế TNDN số 32/2013/QH13 như sau: chi phí trả lãi tiền vay vốn tương ứng với khoản vay vượt quá 5 lần vốn chủ sở hữu (5:1) đối với lĩnh vực sản xuất, vượt quá 4 lần vốn chủ sở hữu (4:1) đối với các lĩnh vực còn lại.

Từ ngày 1/1/2019, tỷ lệ khống chế chi phí trả lãi tiền vay vốn tương ứng với khoản vay vượt quá vốn chủ sở hữu là 4:1 đối với lĩnh vực sản xuất và 3:1 đối với các lĩnh vực còn lại. Riêng tổ chức tín dụng và một số ngành, lĩnh vực mà pháp luật chuyên ngành đã có quy định về tỷ lệ khống chế chi phí trả lãi tiền vay vốn tương ứng với khoản vay vượt quá vốn chủ sở hữu thì thực hiện theo quy định đó.

Ngoài ra, do đây là quy định mới, có tác động rất lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, vì vậy để dự phòng các trường hợp đặc biệt, dự thảo Luật cũng bổ sung quy định các trường hợp đặc biệt sẽ giao Chính phủ quy định.

Theo N.P

Thời báo tài chính Việt Nam

Trở lên trên