Việt Nam đứng thứ 2 thế giới về phục hồi sau dịch, thứ 5 về số liều vaccine trung bình trên mỗi người dân
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng báo cáo tại phiên họp - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, tính chung 9 tháng, GDP tăng 8,83%, cao nhất từ năm 2011 đến nay, phục hồi và tăng đồng đều trong cả 3 khu vực. Mặt khác, Việt Nam xếp thứ 2 thế giới về phục hồi sau dịch theo xếp hạng tháng 8 của Nikkei, Việt Nam đứng thứ 7 thế giới về tỉ lệ tiêm liều nhắc lại, thứ 5 về số liều vaccine trung bình mỗi người dân nhận được.
- 30-09-2022Tỉnh có tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công đạt hơn 85%, cao nhất cả nước làm được gì trong 9 tháng đầu năm 2022?
- 29-09-2022GS.TSKH Nguyễn Mại: Nếu không thay đổi, phát triển công nghiệp của Thanh Hóa sẽ sớm bị Hà Tĩnh, Nghệ An vượt mặt
- 28-09-2022Top 10 địa phương có tốc độ tăng thu nhập bình quân nhanh nhất cả nước trong 10 năm qua
Tại Phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 9 năm 2022, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã có các Báo cáo về tình hình kinh tế-xã hội (KTXH) tháng 9 và 9 tháng năm 2022; triển khai Chương trình phục hồi và phát triển KTXH; phân bổ, giải ngân kế hoạch vốn ngân sách nhà nước (NSNN) năm 2022; triển khai 03 Chương trình mục tiêu quốc gia.
Theo Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng, tình hình thế giới có nhiều biến động nhanh, phức tạp, khó lường, những vấn đề mới phát sinh chưa có tiền lệ, khó khăn hơn so với dự báo tại thời điểm xây dựng Kế hoạch phát triển KTXH năm 2022 và Nghị quyết 01/NQ-CP.
Trong nước, động thái điều chỉnh chính sách của các nước được theo dõi sát sao để kịp thời có các giải pháp tiền tệ, tài khóa, điều hành giá, giải pháp vĩ mô nhằm ứng phó đồng bộ, phù hợp với tình hình. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã tổ chức nhiều hội nghị để vừa thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ thường xuyên, vừa tập trung giải quyết những khó khăn nội tại của nền kinh tế, xử lý các vấn đề tồn đọng, kéo dài, cũng như các biện pháp bảo đảm sức khỏe nhân dân, vừa phòng, chống thiên tai, dịch bệnh, phục hồi và phát triển KTXH, vừa ứng phó với những tình huống mới, bất ngờ, phát sinh, đồng thời góp phần ổn định tâm lý thị trường, nhà đầu tư, doanh nghiệp.
Nhờ đó, nền kinh tế phục hồi rất tích cực; tăng trưởng kinh tế cao đi cùng với giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát được lạm phát, bảo đảm được các cân đối lớn của nền kinh tế, đời sống người dân tiếp tục được cải thiện.
Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nêu rõ các kết quả đạt được:
(1) Tăng trưởng kinh tế đạt kết quả tích cực so với cùng kỳ: GDP quý III tăng 13,67%, trong đó khu vực nông, lâm, thủy sản tăng 3,24%, công nghiệp-xây dựng tăng 12,91%, dịch vụ tăng 18,86%; tính chung 9 tháng GDP tăng 8,83%, cao nhất từ năm 2011 đến nay, phục hồi và tăng đồng đều trong cả 03 khu vực, lần lượt là 2,99%, 9,44% và 10,57%.
(2) Ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát được lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn: CPI bình quân 9 tháng tăng 2,73%, tương đương cùng kỳ các năm 2018-2021; bảo đảm nguồn cung điện, xăng dầu; khẩn trương xây dựng, trình Quốc hội phương án giảm thuế xăng dầu, tạo dư địa hỗ trợ giá trong trường hợp cần thiết.
- Thị trường tiền tệ cơ bản ổn định, đến ngày 26/9, tín dụng tăng 10,83% so với cuối năm trước; ổn định tỉ giá phù hợp với dư địa điều hành chính sách tiền tệ để kiểm soát lạm phát, giảm áp lực tăng giá đầu vào nhập khẩu và áp lực dịch chuyển dòng vốn ra khỏi thị trường Việt Nam.
- Thu ngân sách nhà nước 9 tháng ước đạt 94% dự toán, tăng 22% so với cùng kỳ năm 2021, trong đó thu nội địa đạt 88,9% dự toán, tăng 18,8%, tạo dư địa trong điều hành tài khóa, hỗ trợ cho chính sách tiền tệ.
- Tổng vốn đầu tư toàn xã hội 9 tháng ước tăng 12,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó đầu tư ngoài nhà nước ước tăng 10%, vốn FDI thực hiện tăng 16,2% cho thấy xu hướng mở rộng đầu tư, sản xuất, kinh doanh khá tích cực, phản ánh niềm tin của doanh nghiệp vào việc giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô của nước ta.
- Kim ngạch xuất nhập khẩu tháng 9 ước tăng 8,4% so với cùng kỳ năm 2021; tính chung 9 tháng đạt 558,5 tỷ USD, tăng 15,1%, trong đó xuất khẩu tăng 17,3%, nhập khẩu tăng 13%. Nền kinh tế tháng 9 ước xuất siêu 1,14 tỷ USD, tính chung 9 tháng xuất siêu 6,52 tỷ USD.
(3) Hoạt động sản xuất, kinh doanh có nhiều khởi sắc: Sản xuất nông nghiệp cơ bản ổn định, bảo đảm nguồn cung lương thực, thực phẩm đáp ứng tiêu dùng trong nước và xuất khẩu; bảo đảm tiến độ sản xuất, tái đàn, tái vụ, phục vụ nhu cầu tiêu dùng tăng cao trong dịp Tết Nguyên đán sắp tới. Sản lượng thủy sản đánh bắt đã bắt đầu phục hồi trở lại, bà con ngư dân yên tâm vươn khơi bám biển.
Sản xuất công nghiệp phục hồi tốt. Giá trị tăng thêm công nghiệp trong quý III ước tăng 12,12% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn cả năm 2019 là năm trước dịch (tăng 9,38%); tính chung 9 tháng ước tăng 9,63% so với cùng kỳ, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 10,69% (cùng kỳ năm 2021 tăng 6,05%).
Các đại biểu tham dự phiên họp tại đầu cầu trụ sở Chính phủ - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Thương mại, dịch vụ đang phục hồi nhanh, nhất là sức cầu trong nước: Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 9 ước tăng 36,1% so với cùng kỳ năm trước; tính chung 9 tháng ước tăng 21%, nếu loại trừ yếu tố giá tăng 16,8%. Du lịch tiếp tục phục hồi tích cực, khách quốc tế 9 tháng đạt gần 1,9 triệu lượt, gấp 16,4 lần cùng kỳ năm 2021.
(4) Tình hình doanh nghiệp tiếp tục khởi sắc. Số doanh nghiệp gia nhập và tái gia nhập thị trường 9 tháng đạt trên 163.000 doanh nghiệp, tăng 38,6% so với cùng kỳ năm 2021, gấp 1,4 lần doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường. Theo kết quả điều tra doanh nghiệp trong ngành chế biến, chế tạo, 74,6% doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất, kinh doanh tích cực trong quý III; 82,6% doanh nghiệp nhận định lạc quan về tình hình quý IV; tồn kho giảm, tình hình đơn hàng của doanh nghiệp tiếp tục tích cực trong quý III và dự kiến trong cả quý IV.
(5) Tập trung hoàn thiện thể chế, cải cách hành chính, thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, tháo gỡ rào cản nguồn lực cho phát triển; triển khai thí điểm cơ chế, chính sách đặc thù cho một số địa phương như Khánh Hòa, Cần Thơ; xây dựng Nghị quyết của Bộ Chính trị, Chương trình hành động của Chính phủ về phát triển các vùng Trung du và miền núi phía bắc, Đồng bằng sông Cửu Long, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ; tổng kết, đánh giá các Nghị quyết của Trung ương về đất đai, nông nghiệp, nông dân, nông thôn và kinh tế tập thể… Rà soát, hoàn thiện tổ chức bộ máy bên trong của bộ, cơ quan, dự kiến cắt giảm được 17 tổng cục, trên 100 cục và tương đương.
(6) Nâng cao hiệu quả huy động, sử dụng các nguồn lực phục vụ phát triển KTXH: Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã tổ chức nhiều hội nghị quan trọng về ổn định kinh tế vĩ mô, doanh nghiệp, các thị trường vốn, lao động, bất động sản, khoa học công nghệ…; ban hành Nghị định 65/2022/NĐ-CP để tháo gỡ “nút thắt” cho thị trường trái phiếu doanh nghiệp, tăng tính minh bạch và giảm thiểu rủi ro cho nhà đầu tư. Đưa vào sử dụng một số công trình hạ tầng quan trọng như Như: đường cao tốc Bắc-Nam đoạn Cao Bồ-Mai Sơn, đoạn La Sơn-Túy Loan, cao tốc Hạ Long-Vân Đồn, Vân Đồn-Móng Cái, Trung Lương-Mỹ Thuận…; trong tháng 9 đã phát động thi đua “120 ngày đêm” thông xe kỹ thuật 04 dự án thành phần cao tốc Bắc-Nam phía đông giai đoạn 1, khởi công dự án thành phần 1A đoạn Tân Vạn-Nhơn Trạch thuộc Vành đai 3 TPHCM. Quyết liệt xử lý dứt điểm các vấn đề tồn đọng, kéo dài; đưa vào vận hành Nhà máy Nhiệt điện Thái Bình (giai đoạn 2), Sông Hậu 1; tháo gỡ vướng mắc trong xử lý các tổ chức tín dụng yếu kém, các dự án của VEC và VIDIFI, dự án Lọc hóa dầu Nghi Sơn, cơ cấu lại Ngân hàng Phát triển Việt Nam, nhiệt điện Long Phú 1, Ô Môn…
(7) Làm tốt công tác chăm lo phát triển văn hóa, xã hội, cải thiện đời sống nhân dân. Tiếp tục triển khai các chính sách an sinh xã hội, hỗ trợ người nghèo, đối tượng chính sách; các chính sách tín dụng ưu đãi trong 9 tháng đã giải ngân trên 77.000 tỷ đồng, hỗ trợ gần 1,8 triệu hộ nghèo, đối tượng chính sách vay vốn. Quan tâm hơn công tác dạy nghề, phát triển thị trường lao động; tình hình lao động, việc làm khởi sắc, tỉ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm 9 tháng lần lượt là 2,35% và 2,29%, giảm so với cùng kỳ năm trước (2,67% và 3,04%). Làm tốt công tác bảo trợ xã hội; chăm lo, bảo vệ và phát triển trẻ em.
Đẩy mạnh quán triệt, triển khai Kết luận của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc; quan tâm bố trí nguồn lực triển khai nhiều sự kiện văn hóa, nghệ thuật, lễ hội… phục vụ các sự kiện chính trị, chào mừng các ngày lễ lớn, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ của nhân dân. Tháng 9 diễn ra nhiều hoạt động chào mừng 77 năm ngày Quốc khánh (2/9); tổ chức các sự kiện vui chơi, giải trí trong dịp Tết Trung thu, góp phần nâng cao nhận thức trong cộng đồng về bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em. Tổ chức rất thành công, tham dự và đạt thành tích cao tại nhiều sự kiện thể thao lớn, nhất là SEA Games 31.
Công tác phòng, chống dịch COVID-19, các dịch bệnh mới phát sinh tiếp tục được chú trọng. Việt Nam đứng thứ 7 thế giới về tit lệ tiêm liều nhắc lại, thứ 5 về số liều vaccine trung bình mỗi người dân nhận được. Nhờ vậy, dịch COVID-19 được kiểm soát, tỉ lệ chuyển nặng, tử vong rất thấp so với các nước, tránh được nguy cơ “dịch chồng dịch”; xếp thứ 02 thế giới về phục hồi sau dịch.
Ngành giáo dục đã tổ chức tốt kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông quốc gia, tuyển sinh đại học, cao đẳng, khai giảng năm học mới; tích cực đổi mới, nâng cao chất lượng sách giáo khoa, triển khai Chương trình giáo dục phổ thông mới, tuyển dụng biên chế giáo viên đáp ứng yêu cầu năm học mới.
(8) Bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, nhất là trong thời gian diễn ra các sự kiện lớn của đất nước. Đấu tranh phòng, chống tiêu cực, tham nhũng, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân; chỉ đạo đôn đốc việc thực hiện kết luận thanh tra, kiểm tra, kiểm toán. Triển khai thực hiện tốt công tác tiếp công dân; nắm chắc tình hình công dân khiếu kiện, đặc biệt là tại các địa phương có đoàn đông người khiếu kiện, phức tạp, tiềm ẩn nguy cơ phát sinh “điểm nóng” để có biện pháp xử lý phù hợp.
Tăng trưởng GDP 9 tháng cao nhất trong 12 năm qua.
(9) Công tác đối ngoại được thực hiện linh hoạt, thiết thực, hiệu quả, phù hợp với bối cảnh thực tiễn; vinh dự đảm nhiệm Phó Chủ tịch Đại hội đồng Liên Hợp Quốc khóa 77; xử lý cân bằng, hài hòa quan hệ với các nước lớn; kịp thời điều tra, xử lý các vụ, việc đưa công dân sang nước ngoài trái phép; bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc, góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định và thuận lợi cho phát triển, nâng cao vị thế, quảng bá hình ảnh đất nước. Trong tháng, nước ta tích cực đảm nhiệm vai trò tại Hội đồng chấp hành UNESCO và vận động ứng cử thành viên Hội đồng Nhân quyền nhiệm kỳ 2023-2025; tổ chức tốt chuỗi hoạt động kỷ niệm 35 năm ngày UNESCO thông qua Nghị quyết tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (6/9); chuẩn bị Ngày Việt Nam tại Áo (28-29/9).
Bên cạnh đó, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cũng nêu rõ một số tồn tại, khó khăn, thách thức. Nền kinh tế mặc dù đã phục hồi mạnh mẽ, nhưng tăng trưởng 9 tháng đầu năm bình quân 03 năm 2020-2022 chỉ đạt 5,41%, chưa bù đắp để đạt được mức tăng trưởng tương đương cùng kỳ các năm trước dịch 2016-2019 (6,88%). Các cấp, các ngành cần nỗ lực hơn nữa để nắm bắt cơ hội phấn đấu đạt mục tiêu tăng trưởng bình quân 05 năm 2021-2025 (6,5-7%/năm).
Hoạt động sản xuất, kinh doanh vẫn còn gặp nhiều khó khăn, thách thức. Nguy cơ suy thoái tại nhiều nước ngày càng trở nên rõ ràng hơn; kim ngạch xuất khẩu hàng hóa, lượng khách du lịch… có khả năng bị thu hẹp hơn, gia tăng thách thức lên tăng trưởng xuất khẩu, du lịch nước ta. Các thị trường chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp, bất động sản còn tiềm ẩn rủi ro. Dịch COVID-19 còn tiềm ẩn khả năng diễn biến phức tạp.
“Nhìn chung, trong tháng 9 và 9 tháng, nền kinh tế có xu hướng phục hồi rất tích cực; tăng trưởng kinh tế cao, đồng thời vẫn giữ vững được ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát được lạm phát và bảo đảm được các cân đối lớn. Đây là nền tảng quan trọng để thúc đẩy phục hồi kinh tế và phát triển bền vững, tạo dư địa nguồn lực ứng phó với những rủi ro, thách thức của tình hình thế giới hiện nay.
Tuy nhiên, khó khăn, thách thức phải đối mặt là rất lớn, các yếu tố rủi ro, bất định ngày càng gia tăng, nhất là áp lực lạm phát từ bên ngoài, thị trường xuất khẩu, khách du lịch quốc tế bị thu hẹp, việc điều chỉnh chính sách của các nước lớn… Các cấp, các ngành cần nắm chắc tình hình, rất chủ động trong công tác quản lý, điều hành phát triển KTXH; phối hợp chặt chẽ, kết hợp đồng bộ chính sách tiền tệ với chính sách tài khóa, điều hành giá và chính sách vĩ mô khác để giữ vững thành quả về ổn định vĩ mô, kiểm soát lạm phát, đồng thời thúc đẩy tăng trưởng kinh tế phù hợp theo mục tiêu đề ra”, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nhấn mạnh.
Trên cơ sở kết quả 9 tháng đầu năm 2022, dự báo tình hình quý IV, Bộ Kế hoạch và Đầu tư kiến nghị phấn đấu đạt tăng trưởng cả năm khoảng 8%,tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế năm 2023.
Về phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm những tháng cuối năm, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng đề nghị các bộ, cơ quan, địa phương cần thực hiện nhanh, hiệu quả, thực chất, toàn diện các Nghị quyết số 01/NQ-CP, 02/NQ-CP và 124/NQ-CP, Chương trình phục hồi và phát triển KTXH, Chương trình phòng, chống dịch COVID-19, Chỉ thị 15/CT-TTg về ổn định kinh tế vĩ mô; chủ động ứng phó linh hoạt, kịp thời với các tình huống phát sinh, đồng thời bảo đảm dư địa nguồn lực, chính sách để ứng phó với những biến động trong trung và dài hạn của tình hình thế giới; đồng thời tập trung thực hiện nhanh, hiệu quả các giải pháp căn cơ để đạt mục tiêu phát triển 05 năm đề ra.
Về tình hình triển khai chương trình phục hồi và phát triển KTXH, đến ngày 28/9, giải ngân các chính sách hỗ trợ đạt 61.000 tỷ đồng, trong đó: (i) Các chương trình cho vay ưu đãi thông qua Ngân hàng Chính sách xã hội đạt 10.552 tỷ đồng; (ii) Hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động đến ngày 23/9 đạt khoảng 3.545 tỷ đồng cho hơn 5 triệu lao động, vượt mục tiêu ban đầu (04 triệu lao động); (iii) Hỗ trợ 2% lãi suất cho khoảng 9.800 tỷ đồng dư nợ tín dụng, với số tiền là 13,5 tỷ đồng; (iv) Giảm thuế giá trị gia tăng, thuế môi trường là 39.422 tỷ đồng, hỗ trợ chi phí cơ hội thông qua gia hạn thời gian nộp thuế và tiền thuê đất là 7.400 tỷ đồng.
Thủ tướng Chính phủ đã giao 147.138 tỷ đồng kế hoạch vốn của Chương trình cho 94 nhiệm vụ, dự án của các bộ, cơ quan Trung ương, địa phương.
Về giải ngân đầu tư công, theo báo cáo của Bộ Tài chính, ước giải ngân kế hoạch đầu tư vốn NSNN đến ngày 30/9 đạt 46,70% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao, giảm nhẹ so với cùng kỳ năm 2021 (cùng kỳ năm 2021 đạt 47,38%), tuy nhiên số tuyệt đối giải ngân năm 2022 cao hơn cùng kỳ năm 2021 là 34.597,2 tỷ đồng, tăng khoảng 16%. Đáng chú ý, nhiệm vụ giải ngân vốn đầu tư công năm 2022 rất nặng nề, lượng vốn cần giải ngân cao hơn khoảng 80.000 tỷ đồng so với năm 2021 (chưa tính khoản 38.000 tỷ đồng bổ sung dự toán chi đầu tư phát triển năm 2022 từ nguồn Chương trình phục hồi và phát triển KTXH). Có 02 cơ quan Trung ương và 10 địa phương có tỉ lệ giải ngân đạt trên 70% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao; 14 bộ, cơ quan Trung ương và 01 địa phương có tỉ lệ giải ngân dưới 20% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao.
Tiến độ giải ngân tháng 9 có chuyển biến tích cực cho thấy hoạt động của 06 Tổ công tác bước đầu phát huy hiệu quả, trong vòng 1 tháng, tiến độ giải ngân tháng 9 đạt 40.920,84 tỷ đồng, gấp 1,5 lần so với mức giải ngân bình quân một tháng trong 8 tháng đầu năm là 26.528,41 tỷ đồng. Tuy nhiên, giải ngân vốn đầu tư công 9 tháng vẫn chưa đạt kỳ vọng do nhiều nguyên nhân khách quan, chủ quan đã được báo cáo tại các Phiên họp Chính phủ và Hội nghị trực tuyến đôn đốc giải ngân đầu tư công.
Đến ngày 30/9, có 47/52 địa phương đã hoàn thành việc giao kế hoạch vốn thực hiện 03 chương trình mục tiêu quốc gia cho các cơ quan, đơn vị, cấp trực thuộc; 04/52 địa phương mới giao kế hoạch vốn đầu tư, chưa giao kinh phí sự nghiệp cho các cơ quan, đơn vị, cấp trực thuộc; 01/52 địa phương chưa hoàn thành việc phân bổ, giao kế hoạch cho các cơ quan, đơn vị và cấp trực thuộc.
VGP