MỚI NHẤT!

Đọc nhanh >>

WB: Điều chỉnh thuế phải gắn với kiểm soát chi tốt hơn để cân bằng tài khoá

Bộ Tài chính đang soạn thảo và lấy ý kiến về Luật sửa đổi 5 luật thuế của Bộ Tài chính với nhiều ý kiến trái chiều. Một trong những lý do là Bộ Tài chính chưa công bố các tính toán cụ thể với các phương án điều chỉnh thuế là để thu thập thêm các ý kiến của các đơn vị và một số tổ chức tài chính quốc tế hàng đầu.

Ông Sebastian Eckardt - Kinh tế gia trưởng, quyền Giám đốc Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam đã chia sẻ với báo chí một số ý kiến về dự thảo Luật sửa đổi 5 luật thuế của Bộ Tài chính và một số tác động đến các nhóm dân cư, doanh nghiệp trong xã hội.

Đánh giá tổng thể của Ngân hàng Thế giới (WB) về đề xuất Luật sửa đổi một số luật thuế của Bộ Tài chính trong bối cảnh hiện nay của Việt Nam thế nào, thưa ông?

Ông Sebastian Eckardt: Chúng tôi cho rằng đề xuất cải cách chính sách thuế của Bộ Tài chính là rất quan trọng và kịp thời để bảo đảm tăng trưởng bền vững và ổn định kinh tế vĩ mô. Tỉ lệ số thu thuế trên GDP của Việt Nam đã giảm trong những năm gần đây - từ 23,5%

GDP năm 2010 xuống 18,3% GDP vào năm 2016. Việc giảm tỉ lệ động viên trên GDP chủ yếu do ba yếu tố. Thứ nhất, thu từ dầu thô giảm. Thứ hai, thu từ thương mại giảm do thực hiện các cam kết cắt giảm thuế quan mà Việt Nam đã ký kết tại các Hiệp định thương mại. Cuối cùng là do việc giảm thuế suất thuế TNDN từ 32% xuống 20% để tăng tính cạnh tranh của nền kinh tế. Những thay đổi nêu trên tạo hiệu quả tốt cho nền kinh tế nói chung do đã kích thích đầu tư, tăng trưởng và tạo việc làm, nhưng cũng đã góp phần làm thâm hụt ngân sách ngày càng tăng, dẫn đến tăng nợ công. Hiện nay tỉ lệ động viên trên GDP của Việt Nam đã giảm 5,2% so với thời điểm năm 2010 và sự sụt giảm trong nguồn thu này đang được bù đắp bởi nợ công.

Mức chênh lệch tài khóa trên cần được thu hẹp để bảo đảm bền vững nợ công. Việc này đòi hỏi các chính sách toàn diện và cân bằng ở cả chính sách huy động nguồn lực đủ và chi tiêu hiệu quả hơn.

Về chi ngân sách, tôi cho rằng, cần phải cải thiện tính hiệu quả và tiết kiệm, quyết liệt cắt các khoản chi không hiệu quả.

Dù vậy, Việt Nam cần tiếp tục đầu tư vào cơ sở hạ tầng cũng như y tế và giáo dục cho người dân Việt Nam. Do đó, cần phải tiến hành những biện pháp để tăng huy động nguồn thu trong nước để bảo đảm nguồn lực cho đầu tư bền vững phục vụ phát triển và tăng trưởng trong tương lai, hạn chế để nợ công tăng cao khi dịch vụ xã hội không bảo đảm.

Về định hướng điều chỉnh, tôi cho rằng, cần tiến hành cải cách thuế để đưa huy động thu quay lại quỹ đạo bền vững và chia sẻ công bằng gánh nặng, đồng thời thuế cũng cần hỗ trợ phát triển và đầu tư.

Đề xuất Luật sửa một số luật thuế mới đây là một gói cải cách toàn diện với các phương án chính sách rõ ràng cần được cân nhắc một cách cẩn trọng theo hướng này.

Tỉ lệ động viên của thuế giá trị gia tăng (VAT) trong tổng thu ngân sách của Việt Nam cao hơn so với một số quốc gia. Liệu đề xuất tăng thuế VAT để cơ cấu lại nguồn thu có phù hợp?

Ông Sebastian Eckardt: Về đề xuất sửa đổi thuế GTGT, có nhiều ý kiến khẳng định rằng cần xem xét thuế GTGT là một phần của tiến trình cải cách, cơ cấu lại tổng thể hệ thống thuế. Đã có nhiều nghiên cứu cho thấy thuế VAT hiệu quả hơn về khía cạnh phục vụ phát triển kinh tế so với thuế thu nhập đánh vào lao động và vốn.

Thuế VAT có ít tác động bóp méo đến các quyết định kinh tế của hộ và doanh nghiệp hơn sắc thuế đánh vào lao động và vốn. Thuế VAT cũng góp phần hỗ trợ tăng tính cạnh tranh quốc tế. Là thuế đánh vào việc tiêu dùng trong nước, bao gồm cả hàng hóa dịch vụ nhập khẩu trong khi hàng hóa dịch vụ xuất khẩu không thuộc đối tượng chịu thuế VAT. Trong khi đó, thuế thu nhập, dù là đánh vào lao động hay vốn thì đều tạo gánh nặng thuế lên quá trình sản xuất trong nước nhưng hàng nhập khẩu thì không thuộc đối tượng chịu thuế thu nhập, do đó, nhiều nước đang chuyển đổi cơ cấu thuế phụ thuộc nhiều hơn vào thuế VAT.

Việt Nam vẫn còn tiềm năng mở rộng việc áp dụng thuế VAT, do tỷ trọng của thuế hàng hóa và dịch vụ hiện hành của Việt Nam vào năm 2016 chiếm khoảng 48,5% tổng thu NSNN, khá thấp trong khu vực ASEAN. Mức thuế VAT trung bình của toàn thế giới là 16% nhưng tất nhiên là có nhiều khác biệt giữa các nước. Trong khối các nước ở châu Á, có Indonesia và Campuchia đang áp dụng thuế suất 10%, Philippines mức 12%, Sri Lanka 12,5%, Mông Cổ 13%, Bangladesh 15% và Trung Quốc 17%. Ấn Độ vừa mới áp dụng hệ thống thuế hàng hóa và dịch vụ (GST), thuế suất 20% hoặc cao hơn tùy vào mặt hàng. Do đó, mức tăng thuế suất thuế VAT như đề xuất là phù hợp với thông lệ quốc tế.

Hiện có một số lo ngại về tác động của việc tăng thuế VAT đối với người nghèo, xin ông phân tích về vấn đề này?

Ông Sebastian Eckardt: Thực tế, đây là vấn đề quan trọng, gây tranh cãi khắp nơi trên thế giới. Không giống như thuế thu nhập có tính chất lũy tiến, thuế VAT không phân biệt đối tượng nộp thuế. Tất cả các hộ gia đình đều phải trả thuế VAT như nhau, bất kể mức thu nhập thế nào. Cụ thể, tại Việt Nam, theo tính toán của chúng tôi thì 20% hộ gia đình nghèo nhất chỉ trả khoảng 9% tổng số thu thuế VAT. Trong khi đó, 20% hộ gia đình giàu nhất trả gần 40% tổng số thu thuế VAT. Điều này có nghĩa là nếu một hộ nghèo tiết kiệm được trung bình 10.000 đồng do thuế suất thuế GTGT thấp thì hộ giàu tiết kiệm được 40.000 đồng. Vì vậy, thuế suất thuế GTGT thấp thực sự mang lại lợi ích cho người giàu hơn người nghèo.

Thứ hai, các hộ gia đình nghèo chi trả phần lớn hơn trong thu nhập của mình để tiêu dùng, đặc biệt là vào các mặt hàng thiết yếu như thực phẩm. Một giải pháp để giảm tác động tiêu cực của việc tăng thuế đối với người nghèo là giữ nguyên mức thuế suất thuế GTGT ưu đãi cho các mặt hàng thiết yếu. Điều này sẽ làm giảm tác động tiêu cực của việc tăng thuế đối với người nghèo và phù hợp với xu hướng cải cách thuế theo đề xuất của Bộ Tài chính. Các tác động tới phân bổ thu nhập của việc tăng thuế cần được đánh giá trong bối cảnh toàn bộ hệ thống thuế và hệ thống phúc lợi, chứ không chỉ một sắc thuế riêng lẻ. Tôi cho rằng biện pháp tốt hơn là sử dụng các biện pháp khác để hỗ trợ người nghèo. Về số thu, đề xuất của Bộ Tài chính đã bao gồm các cải cách thuế khác để tạo ra một hệ thống thuế lũy tiến và công bằng hơn.

Ví dụ, cải cách thuế thu nhập cá nhân (TNCN) để có tính chất lũy tiến hơn, hay đề xuất áp dụng thuế tài sản, thường có tính chất lũy tiến, cũng rất quan trọng. Chúng tôi cũng khuyến nghị Việt Nam nên xóa bỏ các “lỗ hổng thuế” và ưu đãi miễn thuế TNDN, thực tế mức thuế suất thuế TNDN hiện nay của Việt Nam đã rất cạnh tranh.

Ngoài ra, cũng có nhiều cách tốt hơn để phân bổ lại cho các hộ nghèo trong về mặt chi ngân sách, bao gồm chi tiêu cho y tế, giáo dục, cơ sở hạ tầng mang lại lợi ích cho người nghèo…

Ngoài ra, kinh nghiệm quốc tế cho thấy tác động của việc tăng thuế suất thuế VAT đối với lạm phát là tương đối hạn chế. Mặc dù việc tăng giá cao hơn xu hướng giá bình thường hoặc lạm phát có thể xảy ra “một lần” nhưng thường sẽ không có tác động lâu dài đối với tỉ lệ lạm phát. Phân tích ban đầu của chúng tôi chỉ ra rằng đề xuất tăng thuế VAT hiện nay sẽ dẫn đến tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) “một lần” trong khoảng 0,06-0,39%.

Chúng tôi cho rằng, chúng ta có thể thảo luận chi tiết hơn nhưng về nhận định tổng quan thì các giải pháp đề xuất trong Dự án Luật sửa các luật thuế sẽ giúp đạt được các mục tiêu của Chính phủ trong việc ổn định huy động nguồn thu trong khi giữ tỷ trọng gánh nặng thuế công bằng và môi trường thuế thuận lợi cho tăng trưởng WB sẽ phối hợp tích cực với Bộ Tài chính để góp ý các báo cáo đánh giá tác động của việc tăng một số loại thuế một cách khách quan hơn để có những điều chỉnh tiếp theo.

Theo Huy Thắng

Chinhphu.vn

Trở lên trên