50 năm ASEAN: Cú hích cải cách cho ô tô Việt trong AEC
Ở phần 2 của bàn tròn trực tuyến “Bài học hội nhập từ ngành công nghiệp trong AEC”, câu chuyện của ngành ô tô Việt được mổ xẻ với nhiều thông tin chuyển biến tích cực. Nhận thức và sự chuẩn bị của doanh nghiệp Việt nói chung để hội nhập ASEAN đã đầy đủ, toàn diện hơn.
- 10-08-2017Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Việt Nam sẽ nằm trong Top 4 ASEAN có môi trường đầu tư tốt nhất
- 08-08-2017Thị trường ô tô Việt vất vả đợi thuế nhập khẩu 0% cho xe sản xuất tại ASEAN
- 08-08-2017Trải qua thăng trầm lịch sử, ASEAN chào đón thời khắc ''vàng''
- 27-07-2017Chuyển từ phân phối sang sản xuất: Doanh nghiệp ô tô trong nước "chạy ngược dòng" mong xuất khẩu vào ASEAN
- 19-07-2017Tổng Thư ký ASEAN: “Năng lực cạnh tranh của Việt Nam sẽ tận dụng được sức mạnh tập thể của ASEAN”
Nhân dịp kỉ niệm 50 thành lập ASEAN , báo VietNamNet tổ chức bàn tròn trực tuyến với chủ đề “Cộng đồng kinh tế ASEAN bài học hội nhập từ ngành công nghiệp”.
Chương trình có sự tham gia của 3 vị khách mời:
Bà Nguyễn Thu Trang, Giám đốc Trung tâm WTO và hội nhập, Phòng Thương mại Công Nghiệp Việt Nam.
Ông Phạm Đình Thi, Vụ trưởng Vụ Chính sách thuế, Bộ Tài chính.
Ông Phạm Anh Tuấn, Phó Vụ trưởng Vụ Vông nghiệp nặng, Bộ Công Thương.
Phần I của bàn tròn:
Theo dõi phần II của bàn tròn tại video sau:
Tín hiệu tích cực hội nhập từ ngành ô tô
Thưa ông Phạm Anh Tuấn, vậy đối với ngành mà ông phụ trách và hiểu rất sâu là ngành công nghiệp ô tô, ông thấy là có những động thái nào tích cực nào nhất đáng ghi nhận cho việc nỗ lực chủ động hội nhập của doanh nghiệp trước bối cảnh thuế nhập khẩu sắp tới giảm xuống 0% và từ đó tranh thủ tận dụng được các cơ hội trong thị trường chung ASEAN sắp tới?
Ông Phạm Anh Tuấn: Về công nghiệp ô tô nói riêng, muốn phát triển trước tiên là phụ thuộc vào dung lượng thị trường. Hiện nay, trong các nước ASEAN, Thái Lan đã đạt 250 xe/ 1000 dân ở mức độ bão hòa, Malaysia là 400 xe thì đáp ứng thừa nhu cầu thị trường, chỉ còn Việt Nam là 22 xe/1000 dân và Philippines là 35 xe /1000 dân là có cơ hội phát triển.
Trong quá trình hội nhập ASEAN, có thể thấy, chúng ta vẫn có điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam tận dụng phát triển.
Như ta đã thấy, tại Thái Lan, xe Toyota tại Thái đã dư thừa, ở Indonesia cũng đã dư thừa. Điều đó thể hiện qua mấy năm gần đây, một số sản phẩm nhập khẩu vào Việt Nam để đáp ứng nhu cầu xuất khẩu của các hãng, đồng thời, cũng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam sử dụng các phụ tùng linh kiện của các nước trong khu vực, lấy xuất sứ ASEAN để xuất khẩu hàng hóa của mình.
Ngoài ra đối với doanh nghiệp công nghiệp ô tô trong nước, phải nói rằng, nhiều người hay đánh giá chính sách phát triển ô tô trong nước theo sản phẩm xe con tức xe chở người dưới 9 chỗ.
Ông Phạm Anh Tuấn, Phó Vụ trưởng Vụ Công nghiệp nặng, Bộ Công Thương và nhà báo Phạm Huyền (ảnh: VietNamNet)
Nhưng thực tế, Chiến lược quy hoạch ngành công nghiệp ô tô được Chính phủ phê duyệt năm 2014 và Quyết định 229 năm 2016 đã nêu rõ ưu tiên phát triển xe định hướng cho tương lai. Đó là xe chở người dung tích nhỏ dưới 1.5 lít, xe tiết kiệm nhiên liệu, xe Hybrid, xe định hướng tương lai… Những xe đó đối với hầu hết với các nước ASEAN và Việt Nam hiện nay vẫn đang tương đối mới.
Ngoài ra, với dòng sản phẩm rất quan trọng là xe thương mại, các loại xe chuyên dùng phục vụ cho an ninh quốc phòng, xe phục vụ nông nghiệp nông thôn, xe chở khách, xe buýt, xe tải, xe khách, xe tải nhẹ… thực tế chúng ta đang làm rất tốt.
Ví dụ xe khách giường nằm cỡ lớn ở Việt Nam có Thaco, Thượng Hải và Samco và các doanh nghiệp nội địa đang làm rất tốt gần như đáp ứng được nhu cầu thị trường. Ngoài ra đối với các xe thương mại, xe tải nhẹ, xe Việt Nam đã làm rất tốt và có sức cạnh tranh, có sức tiêu thụ rất lớn trên thị trường.
Nếu xét về tổng thể, tôi thấy dư địa cho ngành sản xuất ô tô phát triển vẫn còn rất nhiều. Ngoài ra có thể nói với nỗ lực của các doanh nghiệp trong nước hiện nay như một số doanh nghiệp lớn đã tận dụng những cơ hội để hợp tác với các doanh nghiệp có thế mạnh về ô tô nhưng không nằm trong ASEAN như Hàn Quốc và một số nước khác, sử dụng công nghệ và thiết bị của họ, lấy xuất xứ của Việt Nam để xuất khẩu. Tôi nghĩ đây là một thái độ chủ động tích cực đáng ghi nhận trong quá trình hội nhập của các doanh nghiệp trong thời gian tới.
Thưa ông, gần đây ngành công nghiệp ô tô Việt Nam còn nổi lên hai trường hợp là ô tô Trường Hải và Hyundai Thành Công có vẻ như lội ngược dòng, tiếp tục mở rộng đầu tư sản xuất, thậm chí một số mẫu xe chuyển từ nhập khẩu sang sản xuất tại Việt Nam. Trong khi đó, có những doanh nghiệp ô tô liên doanh khác làm ngược lại, khộng tiếp tục mở rộng sản xuất tại Việt Nam và chuẩn bị chuyển sang thành nhập khẩu để tranh thủ cơ hội thuế nhập khẩu giảm xuống 0% ở trong Asean.
Cá nhân ông đánh giá và nhìn nhận như thế nào về hiện tượng này?
Ông Phạm Anh Tuấn: Trước tiên, phải nói là kinh doanh là chuyện của doanh nghiệp, Nhà nước chỉ tạo môi trường để phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bất kể doanh nghiệp trong nước hay doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thuộc mọi thành phần kinh tế ở Việt Nam.
Đối với những doanh nghiệp trong nước thì một số doanh nghiệp như Thaco, Hyundai Thành Công có thể nói đã tận dụng những cơ hội sẵn có để phát triển, vốn là 2 doanh nghiệp phát triển rất mạnh ở Việt Nam. Thaco Trường Hải chiếm thị phần thời gian gần đây là khoảng 50% thị phần xe tải, xe buýt và xe con trong nước. Các hãng này hợp tác với Mazda, Kia với Hyundai và một số hãng khác để phục vụ sản xuất trong nước.
Hyundai Thành Công là 1 trong 2 doanh nghiệp ô tô đã mở rộng sản xuất để hướng tới xuất khẩu trong ASEAN (ảnh chụp robot tự động trong nhà máy Hyundai Thành Công: Phạm Huyền)
Quy trình sản xuất ô tô ở nước nào cũng giống nhau, đầu tiên là nhập khẩu, lắp ráp về sau nghiên cứu và dần làm chủ công nghệ và xuất khẩu.Tôi nghĩ là Thaco và Hyundai Thành Công là đang đi đúng hướng. Cả hai doanh nghiệp này cũng đóng góp lớn cho ngân sách nhà nước.
Còn đối với những doanh nghiệp khác, nếu họ thấy sản xuất trong nước không có lợi thì có thể chuyển sang sản xuất ở các nước có chi phí rẻ hơn hay chuyển sang nhập khẩu vào thị trường Việt Nam. Đó là câu chuyện kinh doanh trong bối cảnh là thương mại toàn cầu mà chúng ta phải chấp nhận.
Có thể thấy, sự phát triển thành công của một ngành sản xuất trong hội nhập không chỉ liên quan tới việc dựa vào chính sách bảo hộ thuế mà phải nằm ở chiến lược dài hạn ngay từ đầu.
Thưa ông Phạm Đình Thi, ông suy nghĩ thế nào khi có tình trạng, cứ nhắc đến hội nhập và giảm thuế thì rất nhiều luồng ý kiến lo ngại là doanh nghiệp Việt Nam trong nước sẽ không tranh nổi và thậm chí, những yếu kém trong sản xuất công nghiệp hay sản xuất hàng hóa nói chung trên thị trường đôi khi lại được đổ lỗi cho chính sách thuế? Trong hội nhập, cụ thể là hội nhập ASEAN, ông đánh giá ra sao sự đóng góp của chính sách thuế đối trong việc phát triển các ngành sản xuất công nghiệp của Việt Nam?
Ông Phạm Đình Thi: Trong bối cảnh hội nhập sâu sắc, chính sách thuế có tác động quan trọng tới các ngành sản xuất, nhưng để các ngành phát triển thì cần phải có hệ thống giải pháp, trong đó các cấp từ Chính phủ, từ các bộ ngành, địa phương và bản thân mỗi doanh nghiệp là phải có sự thay đổi.
Trở lại với công nghiệp ô tô để minh chứng cho điều đó. Ta có thể thấy, trong lúc có một số doanh nghiệp ô tô thu hẹp sản xuất, một số thì chờ để nghe ngóng thì lại có những doanh nghiệp vẫn quyết tâm đầu tư và đầu tư rất lớn. Có thể ví dụ như Trường Hải mới khánh thành sản xuất xe Mazda với quy mô vốn là hơn 12 nghìn tỷ đồng và công suất là 100 nghìn xe/ năm, hoặc là ô tô Hyundai Thành Công cũng đang triển khai dự án với số vốn là hơn 10 nghìn tỷ đồng để sản xuất lắp ráp xe buýt, xe du lịch và xe tải.
Ông Phạm Đình Thi, Vụ trưởng Vụ Chính sách thuế, Bộ Tài chính (ảnh: VietNamNet)
Như vậy, cũng chính sách đấy, có doanh nghiệp là đang nỗ lực đầu tư. Tôi đánh giá rất lớn quyết tâm của Hyundai Thành công cũng như của ô tô Trường Hải trong việc mở rộng đầu tư ngay thời điểm Việt Nam phải xóa bỏ bảo hộ đối với ngành sản xuất ô tô.
Trong cùng một mặt bằng chính sách, trong cùng một thời điểm và tới đây chúng ta thực hiện hội nhập hoàn toàn với ASEAN, việc đầu tư, tái cơ cấu doanh nghiệp, đấy là quyền của mỗi doanh nghiệp. Tùy doanh nghiệp trên cơ sở đánh giá nhìn nhận khả năng thị trường để trên cơ sở đó, họ tái cơ cấu chính họ để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Đó là câu chuyện thứ nhất.
Thứ hai là một số trường hợp như Thành Công hoặc là Trường Hải, rõ ràng họ đã nhìn thấy tiềm năng phát triển của ngành công nghiệp ô tô của Việt Nam. Bởi chúng ta có 4 cơ hội rất lớn để phát triển ngành công nghiệp ô tô này, đặc biệt là cơ hội từ thị trường.
Nói về sức ép cạnh tranh, bản thân cạnh tranh vừa là cơ hội nhưng đồng thời vừa là thách thức.
Cơ hội là khi có cạnh tranh, theo các cụ xưa nói là “cái khó ló cái khôn”, cạnh tranh càng lớn thì doanh nghiệp phải tìm hiểu thêm đào sâu thêm, quản trị doanh nghiệp tăng thêm, tái cơ cấu lại doanh nghiệp từ vốn đến cả người lao động để nâng cao hơn hiệu quả kinh doanh. Những doanh nghiệp nào vượt qua được thời điểm đó thì sẽ trụ vững và vươn xa hơn.
Và rõ ràng, trong cạnh tranh đó, thách thức là doanh nghiệp nào không vượt qua được thì sẽ không thể tồn tại được.
Chính sách thuế có tác động nhưng ở từng giai đoạn, mỗi giai đoạn có mức độ tác động khác nhau. Để chuẩn bị cho công cuộc hội nhập này, lĩnh vực chính sách thuế đã chuẩn bị có những nội dung hơn 20 năm. Chúng ta từng bước sửa đổi hệ thống . Công cuộc cải cách thuế lần thứ nhất là thực hiện từ 2001 – 2010, sửa một loạt vấn đề. Trước 2003, chúng ta có thuế ưu đãi riêng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và với doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thực hiện theo Luật Đầu tư, chịu thuế suất là 10%, 15%, 20% là thuế suất ưu đãi. Trong khi thuế suất phổ thông là 32%. Nhưng doanh nghiệp trong nghiệp trong nước lại thuế suất ưu đãi là 15%, 20%, 25%, cao hơn doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 5%. Từ khi có Luật Quản lý thuế 2003, có hiệu lực từ ngày 1/1/2004, chúng ta thống nhất ưu đãi để đảm bảo bình đẳng giữa các doanh nghiệp.
Ví dụ về thuế tiêu thu đặc biệt, trước 1/4/2009, là thời điểm Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt có hiệu lực, thuế suất chỉ được đánh theo số chỗ ngồi. Theo đó, ô tô từ 5 chỗ ngồi trở xuống, thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt là 50% . Trước nữa, năm 2003, thuế suất là 100%. Riêng sản xuất lắp ráp trong nước, thuế lại được giảm tới 95%.
Đến giai đoạn 2009 trở đi, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt sửa đổi đã lấy căn cứ đánh thuế là vừa theo chỗ ngồi và vừa theo dung tích xi lanh để có mức thuế cho phù hợp. Như vậy, chính sách thuế đã thay đổi căn bản nhiều nội dung, đó chính là những chuẩn bị trước cho quá trinh hội nhập của chúng ta chứ không phải đến bây giờ chúng ta hội nhập rồi mới nói đến cải cách chính sách thuế.
Đến nay, chúng ta đang tiếp tục thực hiện cải cách chính sách thuế giai đoạn 2011- 2020 và hiện, đang tổng kết đánh giá lại các sắc thuế để trên cơ sở đó sửa đổi bổ sung các chính sách cho hợp lý, phù hợp trong điều kiện hiện nay, để chính sách phát huy được hiệu quả cao nhất, thúc đẩy doanh nghiệp phát triển.
Hiểu biết về Cộng đồng kinh tế ASEAN đã tăng mạnh
Thưa bà Nguyễn Thu Trang, cách đây vài năm trước có một nghiên cứu công bố có hơn 60% doanh nghiệp chưa biết gì về hội nhập ASEAN. Vậy bà cảm nhận thế nào về nhận thức của doanh nghiệp ngày nay về vấn đề này, đặc biệt là những thách thức cũng như cơ hội trong Cộng đồng kinh tế đồng kinh tế ASEAN mang lại?
Các doanh nghiệp Việt đã nhận thức tốt hơn về cơ hội trong ASEAN (ảnh chụp nhà máy ô-tô Hyundai Thành Công : Phạm Huyền)
Vietnamnet