MỚI NHẤT!

Đọc nhanh >>

Có 27/63 địa phương thực hiện thu nội địa đạt trên 68% dự toán

Theo Bộ Tài chính, có 27/63 địa phương thực hiện thu nội địa 8 tháng đạt trên 68% dự toán; 09/63 địa phương có tăng trưởng thu so với cùng kỳ (gồm: Hà Nội, Điện Biên, Kiên Giang, Cà Mau, Vĩnh Long, Trà Vinh, Bến Tre, Sóc Trăng, Đồng Tháp).

Báo cáo về tình hình thực hiện chương trình công tác tháng 8, Bộ Tài chính cho biết, lũy kế thu ngân sách Nhà nước (NSNN) 8 tháng ước đạt 1.124,5 nghìn tỷ đồng, bằng 69,4% dự toán, giảm 8,8% so với cùng kỳ năm 2022. Thu NSTW ước đạt khoảng 72,8% dự toán; thu NSĐP ước đạt khoảng 65,5% dự toán.

Trong đó, thu nội địa đạt 69,8% dự toán, giảm 4,5%; thu từ dầu thô đạt 94,6% dự toán, giảm 25,1%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 64,3% dự toán, giảm 23,2% so với cùng kỳ năm 2022.

Không kể thu tiền sử dụng đất, thu xổ số kiến thiết, thu hồi vốn, thu cổ tức, lợi nhuận, lợi nhuận sau thuế và chênh lệch thu, chi của Ngân hàng Nhà nước, số thu thuế, phí nội địa 8 tháng ước đạt 69,6% dự toán, giảm 0,3% so cùng kỳ.

Có 27/63 địa phương thực hiện thu nội địa đạt trên 68% dự toán - Ảnh 1.

Cũng theo Bộ Tài chính, có 9/12 khoản thu nội địa đảm bảo tiến độ dự toán, trong đó: các khoản thu từ 3 khu vực kinh tế ước đạt 70,3% dự toán, tăng 4,7% so cùng kỳ; tuy nhiên, không kể thuế thu nhập doanh nghiệp (đạt khá so dự toán và tăng 23,4% so cùng kỳ do doanh nghiệp đã tạm nộp 4/5 kỳ theo quy định), thì số thu của 03 khu vực này chỉ bằng 91,6% cùng kỳ; thu từ hoạt động xổ số kiến thiết ước đạt 84% dự toán, tăng 20,1% so cùng kỳ; thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản ước đạt 94,9% dự toán, tăng 4% so cùng kỳ; thuế thu nhập cá nhân ước đạt 70,9% dự toán, giảm 7,8% so với cùng kỳ; thu hồi vốn, thu cổ tức, lợi nhuận, lợi nhuận sau thuế, chênh lệch thu chi của Ngân hàng Nhà nước ước đạt 118,8% dự toán, tăng 75,5% so cùng kỳ (chủ yếu do Ngân hàng Nhà nước đã nộp NSNN trong năm 2023 số chênh lệch thu chi phát sinh trong quý IV/2022, số chênh lệch quyết toán năm 2022 và số phát sinh 2 quý đầu năm 2023 đồng, tổng cộng là 28,9 nghìn tỷ, tăng 24,9 nghìn tỷ đồng so dự toán).

Có 03 khoản thu không đạt tiến độ dự toán là thu thuế bảo vệ môi trường ước đạt 37,2% dự toán, giảm 32,3% so cùng kỳ (chủ yếu do thực hiện chính sách giảm thuế bảo vệ môi trường đối với xăng (trừ etanol), dầu diesel, dầu mazut, dầu nhờn, mỡ nhờn, dầu hỏa, nhiên liệu bay theo Nghị quyết số 20/2022/UBTVQH15 và Nghị quyết số 30/2022/UBTVQH15 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội); các loại phí, lệ phí ước đạt 63,4% dự toán, giảm 12,2% so cùng kỳ (chủ yếu do giảm thu lệ phí trước bạ nhà, đất và thực hiện chính sách cắt giảm phí, lệ phí để hỗ trợ cho doanh nghiệp, người dân); các khoản thu về nhà, đất ước đạt 45,6% dự toán, giảm 54,2% so cùng kỳ (chủ yếu do thị trường bất động sản chậm phục hồi; công tác đấu giá, cấp quyền sử dụng đất tại nhiều dự án ở địa phương không triển khai được; hoặc triển khai nhưng không có nhà đầu tư trúng đấu giá).

Có 27/63 địa phương thực hiện thu nội địa 8 tháng đạt trên 68% dự toán; 09/63 địa phương có tăng trưởng thu so với cùng kỳ (gồm: Hà Nội, Điện Biên, Kiên Giang, Cà Mau, Vĩnh Long, Trà Vinh, Bến Tre, Sóc Trăng, Đồng Tháp), 54 địa phương còn lại thu thấp hơn so với cùng kỳ.

Cũng theo báo cáo, luỹ kế chi 8 tháng ước đạt 1.081,2 nghìn tỷ đồng, bằng 52,1% dự toán, tăng 13% so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó: chi đầu tư phát triển ước đạt 41% dự toán Quốc hội quyết định, bằng 42,1% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao (nếu tính cả kế hoạch vốn các địa phương giao tăng thêm so kế hoạch được Thủ tướng Chính phủ giao, thì tỷ lệ giải ngân đạt 39,31% kế hoạch), tăng 40,3% (khoảng 85,4 nghìn tỷ đồng) so cùng kỳ; chi trả nợ lãi ước đạt 64,1% dự toán, tăng 0,9% so cùng kỳ; chi thường xuyên ước đạt 61,1% dự toán, tăng 5,7% so cùng kỳ.

Các nhiệm vụ chi ngân sách trong 8 tháng được thực hiện theo dự toán, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý nhà nước và thanh toán các khoản nợ đến hạn, đảm bảo kinh phí phòng, chống dịch, các nhiệm vụ chi an sinh xã hội, chăm lo cho các đối tượng hưởng lương, lương hưu và trợ cấp xã hội từ NSNN. Chủ động nguồn thực hiện tăng lương tối thiểu (từ 1.490.000 đồng/tháng lên 1.800.000 đồng/tháng) cho các đối tượng hưởng lương từ NSNN và tăng lương hưu, trợ cấp cho các đối tượng thuộc NSNN đảm bảo từ 01/7/2023. Bên cạnh đó, đã thực hiện xuất cấp 18,3 nghìn tấn gạo dự trữ quốc gia để khắc phục hậu quả mưa lũ, cứu trợ, cứu đói cho nhân dân trong dịp Tết Nguyên đán và giáp hạt đầu năm.

Cân đối ngân sách trung ương và ngân sách các cấp địa phương được đảm bảo. Tính đến ngày 30/8/2023, đã thực hiện phát hành 230,5 nghìn tỷ đồng trái phiếu Chính phủ, kỳ hạn bình quân 12,44 năm, lãi suất bình quân 3,44 %/năm.

Theo Yến Nhi

Vnmedia

CÙNG CHUYÊN MỤC

XEM
Trở lên trên