Hàng loạt dự án thành phần cao tốc Bắc-Nam giai đoạn 2 chậm tiến độ
Với những khó khăn vướng mắc về giải phóng mặt bằng và nguồn vật liệu thi công, 8/12 dự án thành phần cao tốc Bắc-Nam giai đoạn 2021-2025 đang bị chậm tiến độ. Trong đó đoạn Chí Thạnh-Vân Phong chậm nhất với 13,59%, đoạn Hậu Giang-Cà Mau chậm 8,96% tiến độ đề ra.
- 06-10-2023Việt Nam là điểm đến đầu tư hàng đầu của doanh nghiệp EU
- 06-10-2023Cao tốc Hoài Nhơn - Quy Nhơn vẫn vướng đất rừng và hạ tầng kỹ thuật
- 06-10-2023PGS.TS Vũ Minh Khương: Chân trời mới đang mở ra, Việt Nam đang đứng trước ngưỡng cửa của một kỷ nguyên có thể cất cánh
Hàng loạt dự án cao tốc Bắc-Nam giai đoạn 2021-2025 (giai đoạn 2) đang bị chậm tiến độ so với kế hoạch. Nếu không giải quyết nút thắt về giải phóng mặt bằng và nguồn vật liệu, đại công trình này sẽ khó có thể về đích đúng hẹn.
8/12 dự án thành phần cao tốc Bắc-Nam chậm tiến độ
Theo báo cáo của Cục Quản lý đầu tư xây dựng (Bộ GTVT), tính đến ngày 30/9, diện tích mặt bằng đã bàn giao đến nay đạt 666,84/721,25km đạt 92,5%, tổ chức thi công được trên phạm vi khoảng 613,5/721,25km, đạt 85%.
Ngoài 3 khu tái định cư đã có sẵn (Bạc Liêu, Cần Thơ, Cà Mau mỗi tỉnh có 1 khu tái định cư cho Dự án Cần Thơ-Hậu Giang và Hậu Giang-Cà Mau, các địa phương đang triển khai thi công 91/147 khu tái định cư để bố trí tái định cư cho khoảng 5.565 hộ. Đến nay, địa phương mới hoàn thành 56/147 khu.
Cập nhật đến công tác thi công, toàn bộ các gói thầu của 12 dự án thành phần Cao tốc Bắc-Nam giai đoạn 2 đã huy động 5.583 máy móc thiết bị các loại, 12.871 nhân sự thi công, 349 nhân sự tư vấn giám sát và tổ chức 561 mũi thi công (286 mũi thi công cầu, 275 mũi thi công đường, hầm chui dân sinh và một số công trình trên tuyến).
Dự án mới hoàn thành và đang thi công khoảng 409,96/637,7km đường công vụ đạt 64,3%, trong đó có 2 đoạn có khối lượng hoàn thành thấp hơn 50% (Hoài Nhơn-Quy Nhơn 18,16/48,6km; Cần Thơ-Hậu Giang16,54/38,13km); các đoạn còn lại khối lượng hoàn thành đạt từ 50-82%.
Sản lượng thực hiện của các dự án khoảng 10.177/95.937,6 tỷ đồng, đạt 10,6% hợp đồng, chậm 2,05% so với kế hoạch. Trong đó, 4/12 dự án thành phần đáp ứng kế hoạch gồm Vũng Áng-Bùng, Bùng-Vạn Ninh, Vạn Ninh-Cam Lộ, Vân Phong-Nha Trang.
Có 8/12 dự án thành phần chậm tiến độ so với kế hoạch gồm Bãi Vọt-Hàm Nghi chậm 3,34%, Hàm Nghi-Vũng Áng chậm 5,83%, Quảng Ngãi-Hoài Nhơn chậm 1,28%, Hoài Nhơn-Quy Nhơn chậm 3,72%, Quy Nhơn-Chí Thạnh chậm 0,16%, Chí Thạnh-Vân Phong chậm 13,59%, Cần Thơ-Hậu Giang chậm 9,33% và Hậu Giang-Cà Mau chậm 8,96%.
Cần cơ chế đặc thù về nguồn vật liệu
Lãnh đạo Cục Quản lý đầu tư xây dựng cũng chỉ ra các khó khăn, vướng mắc về giải phóng mặt bằng ảnh hưởng tới quá trình thi công khi các địa phương chưa thực hiện chuyển đổi rừng với các diện tích tăng thêm, hoặc sai khác vị trí so với Nghị quyết số 273/NQ của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; công tác triển khai xây dựng các khu tái định cư chậm so với tiến độ đề ra; chưa di dời các công trình hạ tầng kỹ thuật phức tạp (nhất là hệ thống điện cao thế).
Về nguồn vật liệu, các nhà thầu gặp khó khăn trong việc thỏa thuận với một số các chủ sở hữu đất khu vực mỏ về chi phí chuyển nhượng, thuê quyền sử dụng đất, góp vốn bằng quyền sử dụng đất để sản xuất kinh doanh theo quy định tại Điều 73 Luật Đất đai.
Ngoài ra, công suất các mỏ cát đang khai thác trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh (đoạn Bãi Vọt-Hàm Nghi) chưa đáp ứng đủ cho nhu cầu xử lý nền đất yếu. Vì vậy, các nhà thầu phải chủ động làm việc với các cơ quan của địa phương để hoàn thiện thủ tục khai thác các mỏ cấp mới, đáp ứng tiến độ.
Thậm chí, một số dự án thành phần thừa khối lượng đất đào nền đường, phải vận chuyển đổ đi trong khi một số dự án khác không đủ vật liệu đất đắp khi điều phối từ nền đào nên phải khai thác đất tại các mỏ về để đắp. Tuy nhiên, theo báo cáo của các chủ đầu tư, việc triển khai các thủ tục để điều phối giữa các dự án thành phần tại địa phương gặp khó khăn do việc điều phối chưa rõ áp dụng cho từng dự án thành phần hay cho toàn dự án.
Từ góc độ của nhà thầu thi công, ông Đào Ngọc Thanh - Chủ tịch Hội đồng quản trị Vinaconex (một trong những nhà thầu thi công Dự án đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đông) cho hay, các dự án xây dựng đường cao tốc có khối lượng vật liệu đắp (đất, cát) lên đến vài triệu m3.
Trong khi đó, thời gian thi công được tính từ ngày khởi công xây dựng công trình khi đáp ứng các điều kiện tại Luật Xây dựng năm 2014, chưa tính đến thời gian nhà thầu phải tiến hành các thủ tục xin cấp phép khai thác mỏ.
Do đó, thời gian thi công các gói thầu cao tốc phải tính thêm thời gian xin cấp phép khai thác mỏ vật liệu xây dựng thông thường. Điều này làm ảnh hưởng lớn đến tiến độ dự án.
Để đáp ứng tiến độ thi công, Chủ tịch Hội đồng quản trị Vinaconex đề xuất các địa phương cho phép nhà thầu tiến hành song song với việc khai thác và trình duyệt thủ tục cho đến khi được cấp phép khai thác trên cơ sở bảo đảm điều kiện an toàn, vệ sinh môi trường…
Cùng quan điểm, Tổng giám đốc Công ty cổ phần Tập đoàn Đèo Cả Khương Văn Cương cho rằng địa phương nơi có dự án đi qua cần có văn bản hướng dẫn cụ thể về trình tự thực hiện, thành phần hồ sơ cấp phép và thời gian xử lý thủ tục phê duyệt cho nhà thầu khai thác mỏ vật liệu đã quy hoạch phục vụ thi công cao tốc.
Bên cạnh đó, các chuyên gia, nhà thầu xây dựng cũng đề xuất cần phải có cơ chế đặc thù cho vật liệu trong công trình hạ tầng giao thông, giảm bớt thủ tục xin cấp phép khai thác; bổ sung thời gian thi công các gói thầu cao tốc phải tính thêm thời gian xin cấp phép khai thác vật liệu; cho phép nhà thầu tiến hành song song công tác khai thác và trình duyệt thủ tục cho đến khi được cấp phép khai thác.
Đặc biệt, đối với những khu vực khan hiếm vật liệu đắp thông thường, việc nghiên cứu sử dụng cát biển làm vật liệu đắp cần được tiến hành, thử nghiệm kỹ lưỡng, tránh đưa ra những kết luận vội vàng ảnh hưởng đến chất lượng, tuổi thọ công trình; nghiên cứu giải pháp thiết kế cầu cạn đảm bảo tính khả thi, bền vững.
VOV