Khủng hoảng tài chính tiếp theo đến từ đâu?
Hãy trông chừng các ngân hàng yếu kém, ngân hàng trong bóng tối và Trung Quốc
- 14-09-2016Đâu là nguyên nhân gây nên khủng hoảng tài chính?
- 04-08-2016Trung Quốc đang viết lại cuộc khủng hoảng cho vay thế chấp dưới chuẩn tại Mỹ
- 02-08-2016Vicenza: "Trái tim đen tối" của cuộc khủng hoảng ngân hàng Italy
Chỉ còn hơn 2 tháng nữa thế giới sẽ bước sang năm mới, năm 2017. Nhìn vào quá khứ, có thể thấy những năm khủng hoảng tài chính nổ ra thường có kết thúc bằng con số 7. Năm 1987, phố Wall chứng kiến phiên giảm điểm mạnh nhất trong lịch sử. Khủng hoảng tài chính châu Á diễn ra vào năm 1997. Và, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu tồi tệ nhất kể từ thời kỳ Đại suy thoái cũng diễn ra vào năm 2007.
Tất nhiên chúng ta chẳng thể biết trước khi nào khủng hoảng sẽ xảy ra. Tuy nhiên, trước cơn bão nào trời cũng nổi cơn giông và ở thời điểm hiện tại những vết nứt trong hệ thống tài chính đang dần lộ diện.
Trong bản báo cáo về sự ổn định của hệ thống tài chính toàn cầu được công bố đầu tháng 10, Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) đã nêu ra vài luận điểm rất chính xác. Theo đó, thế giới có thể tạm thở phào vì những rủi ro ngắn hạn đã dịu bớt. Thị trường hàng hóa phục hồi, có lợi cho các thị trường chủ chốt trong nhóm mới nổi trong khi nhiều NHTW vẫn đang theo đuổi chính sách nới lỏng tiền tệ. Tuy nhiên, “những rủi ro trung hạn vẫn tiếp tục kéo đến”. Đó là những bất an trong hệ thống chính trị khiến những vấn đề càng trở nên khó giải quyết hơn, là những định chế tài chính phương Tây trở nên yếu ớt và gánh nặng nợ khổng lồ của các doanh nghiệp tại những nước mới nổi.
Nợ - ngòi châm của hầu hết các cuộc khủng hoảng tài chính – đang tăng lên nhanh chóng. Ở mức 225% GDP, tổng nợ của cả khu vực công và tư nhân (bên ngoài ngành tài chính) hiện đang ở mức cao nhất mọi thời đại, theo thống kê của IMF. Nợ thúc đẩy tăng trưởng nhưng cũng khiến những con nợ trở nên “mong manh dễ vỡ” khi vẫn liều lĩnh vay thêm dù không có khả năng trả. Nếu con nợ vỡ nợ, các ngân hàng sẽ bị tổn hại, thậm chí đổ vỡ theo. Hiệu ứng domino ập xuống hệ thống tài chính toàn cầu.
So với cuộc khủng hoảng gần nhất, các ngân hàng trên toàn thế giới đã mạnh khỏe hơn. Tuy nhiên vẫn có những trường hợp ngoại lệ. Cổ phiếu của Deutsche Bank, ngân hàng lớn nhất nước Đức, đã giảm 62% so với mức đỉnh lập năm 2015, và CEO John Cryan vẫn chưa thể tìm ra lối thoát. Chính phủ Đức – từng kịch liệt phản đối các gói cứu trợ dành cho các ngân hàng ở khu vực Nam Âu – tuyên bố sẽ không thay đổi quan điểm. Trong khi đó, ở Italy, những khoản nợ xấu trên sổ sách của các ngân hàng chiếm tới 25% GDP.
Kể cả ở Mỹ, nhà đầu tư cũng không cho rằng các ngân hàng của họ đã trở nên an toàn hơn. Nghiên cứu mới được công bố bởi cựu Bộ trưởng Tài chính Larry Summers và nghiên cứu sinh Harvard Natasha Sarin cho thấy giá cổ phiếu của các ngân hàng lớn nhất nước Mỹ vẫn ở mức thấp một cách khó chịu, tức là giá trị thương hiệu của chúng đã bị xói mòn. Điều này cũng đồng nghĩa nếu khủng hoảng nổ ra, các ngân hàng này khó có thể trả nợ bằng cách thanh lý tài sản.
Cũng phải nói rằng trong bối cảnh lãi suất siêu thấp như hiện nay thì các ngân hàng khó có thể đứng vững. Lợi nhuận của họ đã sụt giảm đáng kể, không chỉ bởi lãi suất thu được từ các khoản cho vay quá thấp mà còn bởi chênh lệch giữa lãi suất ngắn hạn và dài hạn đã bị thu hẹp.
Tồi tệ hơn, các ngân hàng còn bị kìm kẹp bởi luật lệ. Tiêu chuẩn mới từ Ủy ban giám sát ngân hàng Basel giới hạn chặt chẽ tỷ lệ đòn bẩy mà các ngân hàng có thể sử dụng. Một luật khác thì yêu cầu các ngân hàng phải ghi nhận khoản lỗ ước tính nhanh hơn. Mặc dù những quy định này chỉ nhằm mục đích đảm bảo cho sự an nguy của hệ thống và ngăn chặn khủng hoảng, các ngân hàng khó có thể chịu đựng lâu hơn nữa.
Trong khi đó Vincent Reinhart, chuyên gia kinh tế trưởng tại BNY Mellon, cho rằng dù các ngân hàng truyền thống phải chịu áp lực đến đâu, rủi ro đến từ hệ thống ngân hàng trong bóng tối (shadow banking) còn đáng sợ hơn nhiều. Đạo luật Dodd-Frank 2010 góp phần giảm thiểu rủi ro đạo đức, nhưng tác dụng phụ của nó là khiến chi phí hoạt động của ngân hàng truyền thống tăng mạnh và đẩy dòng tiền đến những ngân hàng ít bị kiểm soát hơn. Hệ thống ngân hàng trong bóng tối bao gồm các quỹ đầu cơ, quỹ thị trường tiền tệ và các sản phẩm tài chính phi ngân hàng.
Trung Quốc chính là nơi hệ thống ngân hàng trong bóng tối phát triển mạnh mẽ nhất và đáng sợ nhất, được nuôi dưỡng bởi tăng trưởng tín dụng không bền vững. Chính phủ Trung Quốc cũng đã gióng lên hồi chuông cảnh báo về vấn đề này.
Theo Samuel Malone, chuyên gia của Moody’s Analytics, các ngân hàng Trung Quốc là “ngòi nổ lớn nhất”. Nhìn vào quy mô, mức độ mong manh và mối liên kết giữa các ngân hàng lớn nhất thế giới, ông rút ra kết luận rằng các nước láng giềng Đông Nam Á của Trung Quốc (mà đặc biệt là Singapore) sẽ bị ảnh hưởng trực tiếp. Hệ thống ngân hàng trong bóng tối của Trung Quốc quá lớn và người ta hiểu quá ít về nó. Những rắc rối của hệ thống này có thể nhanh chóng lây lan sang các ngân hàng truyền thống.
Chuyên gia kinh tế Willem Buiter của Citigroup hồi tháng 6 khẳng định Chính phủ Trung Quốc có đủ công cụ để ngăn chặn một cuộc khủng hoảng trên diện rộng và sẽ không động đến vấn đề này cho tới khi kết thúc công cuộc chuyển giao quyền lực vào năm 2017.
Tuy nhiên, vấn đề là “hệ thống tài chính quốc tế có thể chờ đợi và chịu đựng được hay không, khi mà những cơn gió lớn vẫn đang ập đến liên hồi”.