Kinh tế Việt Nam năm 2023 và triển vọng năm 2024
Năm 2024 sẽ là năm bản lề quan trọng đối với kinh tế Việt Nam, tạo điều kiện hoàn thành các mục tiêu cho giai đoạn 2021-2025. Để đạt được các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm 2024 đã được Quốc hội giao, TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV đưa ra 5 khuyến nghị.
-
Ở kịch bản cơ sở, GDP Việt Nam năm nay sẽ tăng 5,5-6%. Ở kịch bản tích cực hơn, tăng trưởng cả năm có khả năng đạt 6-6,5%.
LTS: TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV vừa công bố báo cáo nghiên cứu về Kinh tế Việt Nam năm 2023 và triển vọng 2024, trong đó đưa ra những đánh giá chi tiết về kinh tế thế giới và Việt Nam năm qua cũng như các dự báo và khuyến nghị để đạt được các mục tiêu Quốc hội đã giao cho năm 2024. Chúng tôi xin đăng tải nguyên văn báo cáo của Nhóm Nghiên cứu để quý độc giả tiện theo dõi.
---------------------
Năm 2023 vừa qua, kinh tế thế giới và Việt Nam đối mặt với nhiều rủi ro, thách thức hơn cơ hội. Lạm phát đã giảm nhưng còn ở mức cao, lãi suất cao, căng thẳng địa chính trị dai dẳng và phức tạp, rủi ro tài chính - tiền tệ tăng trong tầm kiểm soát, an ninh năng lượng và an ninh lương thực chịu nhiều áp lực… khiến thương mại, tiêu dùng, đầu tư và tăng trưởng kinh tế toàn cầu chậm lại. Đối với Việt Nam, dù còn nhiều khó khăn song kinh tế năm 2023 đạt được nhiều kết quả tích cực, đáng ghi nhận và được các tổ chức quốc tế đánh giá cao; vị thế và uy tín của Việt Nam được nâng cao. Tuy nhiên, những khó khăn, thách thức từ bối cảnh quốc tế cũng như những hạn chế nội tại đang trở thành những rào cản lớn, thách thức cho mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam năm 2024. Do đó, cần tiếp tục củng cố các động lực tăng trưởng truyền thống; đồng thời phát huy và khai thác hiệu quả các động lực tăng trưởng mới để phấn đấu đạt các mục tiêu đề ra cho năm 2024 và giai đoạn 2021-2025.
Tình hình kinh tế thế giới và Việt Nam năm 2023
Năm 2023, kinh tế thế giới (KTTG) gặp nhiều khó khăn, thách thức hơn là thuận lợi như căng thẳng địa chính trị vẫn dai dẳng đan xen với chủ nghĩa bảo hộ, cạnh tranh giữa các nước lớn; nhiều nước tiếp tục thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt để kiềm chế lạm phát, lãi suất neo ở mức cao; rủi ro tài chính – tiền tệ gia tăng; an ninh năng lượng, an ninh lương thực và chuỗi cung ứng luôn hiện hữu, biến đổi khí hậu cực đoan, khó lường hơn…, tác động tiêu cực tới các hoạt động kinh tế - xã hội toàn cầu và Việt Nam.
Mặc dù vậy, KTTG vẫn ghi nhận 4 điểm tích cực, bao gồm: (i) KTTG không bị suy thoái như dự báo hồi đầu năm 2023 (tăng trưởng ước đạt 2,7% từ mức 3% năm 2022, theo UN); (ii) giá cả hàng hóa, lạm phát toàn cầu hạ nhiệt rõ rệt (từ mức 8,1% năm 2022 xuống còn khoảng 5,5% năm 2023); (iii) sức chống chịu của khu vực tài chính - ngân hàng toàn cầu tốt hơn dù có một số vụ đổ vỡ ngân hàng ở Mỹ, Thụy Sỹ song đã nhanh chóng được kiểm soát và sớm ổn định trở lại; (iv) xu hướng xanh hóa, số hóa, chuyển đổi năng lượng,… diễn ra nhanh vừa thể hiện cam kết, vừa là động lực mới cho các nước phát triển kinh tế - xã hội bền vững, chất lượng hơn.
Đối với Việt Nam, trong bối cảnh kinh tế toàn cầu khó khăn, bất định, trong nước nhiều thách thức hơn thời cơ, kinh tế Việt Nam năm 2023 vẫn đạt được 8 điểm sáng đáng ghi nhận.
Một là, nhiều chính sách tháo gỡ khó khăn và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế được ban hành. Với chính sách tài khóa, Quốc hội, Chính phủ ban hành nhiều chính sách về giãn hoãn thuế, tiền thuê đất, giảm một số thuế, phí năm 2023 với tổng quy mô khoảng 198,4 nghìn tỷ đồng (tương đương NSNN giảm thu khoảng 82 nghìn tỷ đồng). Quốc hội, Chính phủ cũng đã quyết định tiếp tục giảm 2% thuế VAT đến hết tháng 6/2024 và tiếp tục giảm 50% thuế bảo vệ môi trường đối với xăng, dầu năm 2024 …v.v.
Với chính sách tiền tệ, NHNN đã 4 lần giảm lãi suất điều hành (từ 0,5-1,5%) nhằm giảm lãi suất huy động vốn và cho vay, tăng khả năng tiếp cận và cung ứng vốn cho nền kinh tế. NHNN đã ban hành Thông tư 02/2023/TT-NHNN về cơ cấu lại nợ, hoãn giãn nợ, không chuyển nhóm nợ và Thông tư 03/2023/TT-NHNN nới lỏng một số điều kiện về cho vay, đầu tư TPDN của các TCTD, góp phần tháo gỡ khó khăn hiện tại của thị trường TPDN. Bên cạnh đó, Thông tư số 10/2023/TT-NHNN được ban hành ngày 23/8/2023 cho phép ngưng hiệu lực thi hành 3 điều khoản tại Điều 8 của Thông tư số 06/2023/TT-NHNN ngày 28/6/2023 nhằm tăng khả năng tiếp cận vốn, nhất là lĩnh vực bất động sản (BĐS).
Nhiều chính sách tháo gỡ nút thắt đối với lĩnh vực y tế, thị trường trái phiếu doanh nghiệp (TPDN), đất đai, xây dựng, bất động sản…cũng đã được ban hành. Trong đó bao gồm: Nghị định 07/2023/NĐ-CP ngày 3/3/2023 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 98/2021/NĐ-CP về quản lý trang thiết bị y tế, Nghị định 08/2023/NĐ-CP ngày 5/3/2023 về sửa đổi, bổ sung và ngưng hiệu lực thi hành một số quy định về chào bán, giao dịch TPDN riêng lẻ, Nghị quyết 33/NQ-CP ngày 11/3/2023 về tháo gỡ và thúc đẩy thị trường BĐS phát triển an toàn, lành mạnh, bền vững; (iii) Nghị định 10/2023/NĐ-CP ngày 3/4/2023 sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đất đai; Nghị định 35/2023/NĐ-CP ngày 20/6/2023 sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định thuộc lĩnh vực quản lý xây dựng…v.v.
Việc hoàn thiện thể chế và cải cách thủ tục hành chính được quan tâm thúc đẩy (dù còn khá chậm), năm 2023 Quốc hội đã thông qua một số luật quan trọng như Luật giá, Luật giao dịch điện tử, Luật nhà ở, Luật kinh doanh bất động sản…, và sắp tới là Luật Đất đai (sửa đổi), Luật các tổ chức tín dụng (sửa đổi)… góp phần tạo điều kiện các thị trường đất đai, BĐS, tài chính phát triển an toàn, bền vững. Chính phủ cũng đã thành lập Tổ công tác cải cách thủ tục hành chính và các giải pháp cải cách và nâng cao hiệu quả giải quyết thủ tục hành chính (Quyết định số 933/QĐ-TTg ngày 6/8/2023 và Chỉ thị số 27/CT-TTg ngày 27/10/2023).
Hai là, kinh tế dần phục hồi, tăng trưởng quý sau cao hơn quý trước và cả năm đạt mức khá so với các nước trong khu vực và thế giới. Tăng trưởng của quý sau cao hơn quý trước (4 quý lần lượt tăng 3,28%, 5,6%, 5,92%, và 6,72%) và cả năm 2023 tăng 5,05%, dù thấp hơn mục tiêu của Quốc Hội, Chính phủ là 6-6,5% song đây là mức tăng cao hơn mức tăng trưởng bình quân của thế giới (2,9%) và mức bình quân của khu vực ASEAN (4,3%), tương đương mức tăng trưởng của Trung Quốc.
Các động lực tăng trưởng truyền thống có dấu hiệu phục hồi. Sản xuất công nghiệp phục hồi từ mức âm -8% đầu năm lên mức +3% cuối năm. Xuất khẩu phục hồi dần (từ mức âm -26% đầu năm lên mức âm -4,4% cuối năm). Đầu tư công đạt kỷ lục, tăng 21,2%; thu hút FDI mới tăng 32%, giải ngân FDI tăng 3,5% so cùng kỳ. Du lịch phục hồi khá tốt và nông nghiệp vượt khó ấn tượng (tăng 3,83% - mức cao nhất kể từ năm 2011 đến nay, đóng góp 10,8% trong mức tăng trưởng chung). Đặc biệt khối doanh nghiệp dù còn khó khăn nhưng cũng đang nỗ lực vượt qua và có tín hiệu phục hồi. Hết quý 1/2023, lượng DN gia nhập thị trường còn ít hơn lượng DN rút lui khỏi thị trường, nhưng đến hết năm đã gấp 1,3 lần.
Ba là, lạm phát được kiểm soát ở mức khá thấp. CPI bình quân năm 2023 tăng 3,25% so với năm 2022, thấp hơn mục tiêu đề ra (4-4,5%). Lạm phát cơ bản tăng 4,16% so với năm trước, thấp hơn mức 4,99% năm 2022 và giảm từ mức trên 5% hồi đầu năm 2023 cho thấy lạm phát trong xu hướng giảm khá bền vững.
Bốn là, thu hút vốn FDI khởi sắc, vốn giải ngân lập kỷ lục: tổng vốn FDI đăng ký năm 2023 ước đạt 36,6 tỷ USD, tăng 32,1% so với năm 2022 nhờ một số dự án quy mô lớn từ Mỹ, Singapore, Trung Quốc, Hàn Quốc…v.v. Giải ngân vốn FDI năm 2023 đạt 23,2 tỷ USD, tăng 3,5% so với năm 2022 và là mức kỷ lục mới trong vòng 7 năm cho thấy sự tin tưởng của nhà đầu tư về chính trị ổn định và triển vọng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong thời gian tới.
Năm là, giải ngân đầu tư công tăng trưởng khá. Năm 2023, giải ngân vốn đầu tư từ nguồn NSNN ước đạt 625,3 nghìn tỷ đồng, tăng 21,2% so với năm trước (cao hơn mức tăng 18,8% năm 2022, chỉ thấp hơn mức tăng 33,6% của năm 2020) và đạt 85,3% kế hoạch năm, đến hết tháng 1/2024 có thể đạt 95% mức Thủ tướng giao.
Sáu là, các cân đối lớn cơ bản được đảm bảo, mặt bằng lãi suất giảm khoảng 2%, tỷ giá cơ bản ổn định (tăng khoảng 2,6% trong bối cảnh thị trường ngoại hối quốc tế nhiều biến động); các thị trường trái phiếu doanh nghiệp, bất động sản dần ổn định và đã xuất hiện tín hiệu phục hồi; an sinh xã hội, an ninh lương thực, năng lượng được bảo đảm…v.v.
Bảy là, xu hướng xanh hóa, số hóa, chuyển đổi năng lượng… được quan tâm thúc đẩy. Năm 2023 là năm thứ hai Việt Nam chính thức triển khai Chiến lược tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050, đặc biệt là Quy hoạch điện VIII đã được ban hành. Kết quả ban đầu đã xuất hiện, các nguồn lực tài chính xanh từ quốc tế và trong nước được ưu tiên nhiều hơn. Tốc độ chuyển đổi số của Việt Nam có chuyển biến tích cực, tăng trưởng khoảng 20%/năm giai đoạn 2023-2025, cao nhất khu vực ASEAN (theo Google, Temasek, Bain & Co., 2023). Thanh toán không tiền mặt tăng nhanh, năm 2023 đạt khoảng 11 tỷ giao dịch (tăng gần 50%) và tổng giá trị giao dịch đạt hơn 200 triệu tỷ đồng (tăng khoảng 20% so với năm 2022)…v.v.
Tám là, công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế đạt nhiều thành tựu quan trọng; vị thế và uy tín của Việt Nam tiếp tục được nâng cao với hàng loạt chuyến thăm cấp cao và nâng cấp quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với với Hoa Kỳ và Nhật Bản, nâng tầm và làm sâu sắc thêm quan hệ hợp tác với Trung Quốc cùng với việc hoàn thành tốt nhiều vai trò quan trọng tại Liên hợp quốc, ASEAN. Những nỗ lực nêu trên của Việt Nam được các tổ chức quốc tế ghi nhận, đánh giá cao. Các tổ chức quốc tế dự báo mức tăng trưởng của Việt Nam đạt khoảng 5% năm 2023 và 5,5-6% năm 2024. Tổ chức xếp hạng tín nhiệm Fitch Ratings (12/2023) đã nâng hạng tín nhiệm quốc gia dài hạn của Việt Nam lên mức BB+, triển vọng "Ổn định", do đánh giá cao về ổn định tài khóa, triển vọng tăng trưởng thuận lợi trong trung hạn.
Tuy nhiên, trong năm 2023, kinh tế Việt Nam phải đối mặt với 8 khó khăn, thách thức chính, đó là: (i) rủi ro và thách thức từ bối cảnh quốc tế như nêu trên vẫn hiện hữu và kéo dài; (ii) các động lực tăng trưởng như xuất khẩu, tiêu dùng cuối cùng, sản xuất công nghiệp, đầu tư tư nhân,… phục hồi chậm, chất lượng tăng trưởng chưa cải thiện (trong đó, kim ngạch xuất khẩu giảm 4,4%, tiêu dùng cuối cùng tăng thấp, ở mức 3,52% (chỉ bằng gần 1 nửa mức tăng 7,18% của năm 2022), khách du lịch quốc tế mới đạt 70% mức trước dịch, Vốn đầu tư toàn xã hội tăng 6,2% thấp hơn 1,8 lần mức tăng 11,2% của năm 2022; trong đó, đầu tư của khu vực tư nhân chỉ tăng 2,7%, là mức thấp nhất trong vòng 6 năm,…); (iii) hoạt động doanh nghiệp đối mặt với nhiều khó khăn (tỷ lệ số lượng doanh nghiệp gia nhập thị trường/số lượng doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường là 1,3 lần - thấp hơn mức 1,5 lần của năm 2022 và mức bình quân 1,6 lần của giai đoạn 2019-2022); (iv) tín dụng tăng chậm hơn năm 2022, cả năm tăng 13,7% do khả năng hấp thụ vốn của doanh nghiệp và nền kinh tế còn yếu trong khi nợ xấu tăng cao (lên đến khoảng 5% cuối năm 2023); (v) Thu ngân sách nhà nước sau 2 năm (2021-2022) tăng khá đã đảo chiều và giảm đáng kể (-5,4%) trong năm 2023, chủ yếu là do ngoại thương giảm, doanh nghiệp còn khó khăn, làm thu hẹp dư địa chính sách tài khóa; (vi) Cơ cấu lại nền kinh tế và các doanh nghiệp yếu kém còn chậm; (vii) Thể chế cho các động lực tăng trưởng mới còn chậm ban hành trong khi thực thi công vụ chậm do tâm lý sợ sai, sợ trách nhiệm vẫn còn khá phổ biến; (viii) Thị trường trái phiếu doanh nghiệp (TPDN), bất động sản (BĐS) và vàng còn nhiều rủi ro…v.v.
Bối cảnh và triển vọng kinh tế thế giới và Việt Nam năm 2024
Kinh tế thế giới được dự báo sẽ ít cải thiện (đi ngang hoặc giảm nhẹ) so với năm 2023 khi những khó khăn, thách thức nêu trên vẫn hiện hữu; đặc biệt là lạm phát và lãi suất còn cao, độ ngấm của tác động chính sách tiền tệ thắt chặt vừa qua, khiến rủi ro tài chính – tiền tệ còn ở mức cao, đầu tư, tiêu dùng phục hồi chậm. Thương mại toàn cầu năm 2024 dự báo vẫn tiếp tục bất định và có thể chỉ tăng 3,3-3,6% sau khi tăng nhẹ 0,8% năm 2023 (WTO, 12/2023). Đà phục hồi của hoạt động đầu tư FDI còn chậm (nhất là trong bối cảnh đa số các nước áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu 15%) và cầu tiêu dùng còn yếu (nhất là ở thị trường EU, Nhật Bản và Trung Quốc). Theo đó, các tổ chức quốc tế như IMF, WB, OECD... đều hạ triển vọng tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2024 xuống thấp hơn so với năm 2023, tăng khoảng 2,4-2,9% (theo IMF 10/2023 và UN 1/2024), thấp hơn 0,1-0,6 điểm % so với tăng trưởng GDP toàn cầu năm 2023 (3%). Điểm tích cực là lãi suất sẽ giảm khi lạm phát toàn cầu tiếp tục giảm (xuống mức khoảng 3,5% từ mức 5,5% năm 2023), qua đó sẽ kích thích đầu tư và tiêu dùng tăng dần trở lại.
Đối với Việt Nam năm 2024, kinh tế vĩ mô trong nước dự báo sẽ đan xen cả thuận lợi và khó khăn, thách thức. Những thuận lợi, tích cực chính tiếp tục kéo dài từ năm 2023 sang (như nêu trên). Tuy nhiên, kinh tế Việt Nam vẫn phải đối mặt với 8 khó khăn, thách thức đã nêu trên, trong đó 2 thách thức, rào cản lớn nhất là tác động tiêu cực từ bên ngoài (nhất là đà tăng trưởng chậm lại của Mỹ, Nhật Bản và Trung Quốc) và tình trạng sợ sai, sợ trách nhiệm, chậm thực thi công vụ có thể vẫn diễn ra nếu những cơ chế, chính sách bảo vệ cán bộ, không hình sự hóa quan hệ kinh tế chưa được luật hóa, cụ thể hóa.
Trong bối cảnh quốc tế và nội tại như nêu trên, với đà phục hồi và nỗ lực, quyết liệt hơn nữa của chính quyền, người dân và doanh nghiệp, dự báo kinh tế Việt Nam 2024 có thể đạt mức tăng trưởng cao hơn năm 2023, cụ thể như sau:
Dự báo tăng trưởng kinh tế năm 2024 với 3 kịch bản:
- Với kịch bản cơ sở, tiếp nối đà phục hồi nửa cuối năm 2023, sự gia tăng hiệu quả của các động lực tăng trưởng truyền thống (như xuất khẩu, đầu tư, tiêu dùng) kết hợp với khả năng phát huy các động lực tăng trưởng mới (KHCN, chuyển đổi số, kinh tế xanh, kinh tế tư nhân, tăng năng suất, đóng góp của TFP và liên kết vùng), dự báo tăng trưởng GDP Việt Nam năm 2024 có thể đạt 6-6,5%. Theo hướng cầu, tăng trưởng của các động lực tăng trưởng chính khoảng 5-10%, trong đó xuất khẩu tăng 5-7%, giải ngân FDI tăng 8-10%; doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng tăng 7,5-8%. Theo hướng cung, tăng trưởng của các lĩnh vực kinh tế duy trì ít nhất tương đương hoặc cao hơn năm 2023, trong đó nông-lâm-thủy sản tăng 3,2-3,5%, công nghiệp - xây dựng tăng 5,2-5,5% và khu vực dịch vụ tăng 7-7,2%.
- Với kịch bản tích cực, trong điều kiện môi trường quốc tế và trong nước thuận lợi hơn, các yếu tố rủi ro bên ngoài được dự báo và kiểm soát tốt; các động lực tăng trưởng (cả truyền thống và mới) được khai thác, phát huy tốt hơn; kinh tế vĩ mô tiếp tục duy trì ổn định, các cân đối lớn được bảo đảm, niềm tin của DN và người dân được củng cố...; tăng trưởng GDP có thể cao hơn 0,5-1 điểm % so với kịch bản cơ sở (đạt 6,5-7%).
- Với kịch bản tiêu cực, nếu các rủi ro bên ngoài gia tăng và tác động tiêu cực hơn, các nền kinh tế lớn phục hồi chậm , xung đột địa chính trị leo thang, thiên tai, dịch bệnh diễn biến phức tạp, khó lường, tác động tiêu cực đến xuất khẩu, đầu tư, tiêu dùng và du lịch quốc tế của Việt Nam, trong khi các động lực tăng trưởng chưa phát huy hiệu quả như kỳ vọng, dự báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2024 chỉ đạt khoảng 5-5,5%.
Dự báo lạm phát năm 2024: dự báo CPI bình quân năm 2024 sẽ ở mức 3,5-4%, cao hơn năm 2023 do đà giảm giá hàng hóa thế giới chững lại hoặc thậm chí tăng trở lại so với năm 2023 (nhất là giá năng lượng, lương thực - thực phẩm và nguyên vật liệu cơ bản do dịch bệnh, thiên tai, căng thẳng địa chính trị còn phức tạp, khó lường); việc tiếp tục điều chỉnh các mặt hàng do Nhà nước quản lý (như tăng lương tối thiểu vùng, tăng giá điện, học phí, viện phí…); cung tiền và vòng quay tiền tăng cao hơn năm 2023 (một phần là do đà phục hồi kinh tế và tín dụng dự báo tăng cao hơn)…v.v.
Năm kiến nghị
Năm 2024 sẽ là năm bản lề quan trọng đối với kinh tế Việt Nam, tạo điều kiện hoàn thành các mục tiêu cho giai đoạn 2021-2025. Để đạt được các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm 2024 đã được Quốc hội giao, Nhóm Nghiên cứu có một số kiến nghị như sau:
Một là, tiếp tục bám sát tình hình kinh tế, tài chính quốc tế; chủ động phân tích, dự báo diễn biến thị trường tài chính - tiền tệ quốc tế để có kịch bản chủ động ứng phó phù hợp (kể cả kịch bản tiêu cực, diễn biến xấu). Nhất quán thực hiện tốt Nghị quyết 01 và 02/2024 mà Chính phủ vừa ban hành.
Hai là, chú trọng các động lực tăng trưởng truyền thống và phát huy, khai thác các động lực tăng trưởng mới. Theo đó, cần chú trọng các động lực tăng trưởng hiện hữu theo hướng: (i) đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, tận dụng tốt hơn các FTA đã ký kết và các quan hệ đối tác chiến lược được nâng cấp gần đây; (ii) thúc đẩy giải ngân đầu tư công hiệu quả, đúng kế hoạch, trở thành vốn mồi cho các nguồn vốn khác; (iii) kích cầu đầu tư tư nhân và tiêu dùng nội địa. Cùng với đó, khai thác tốt hơn các động lực tăng trưởng mới như: (i) phát triển kinh tế số, ứng dụng KHCN, tăng trưởng xanh, chuyển đổi năng lượng; (ii) tăng năng suất lao động, đẩy mạnh cải cách thể chế kinh tế, môi trường đầu tư kinh doanh, nhất là trong bối cảnh áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu và cần kích thích kinh tế tư nhân; (iii) quan tâm thúc đẩy tăng trưởng của các đầu tàu kinh tế (nhất là Hà Nội, TP. HCM và Đà Nẵng – chiếm 32% GDP cả nước năm 2023) qua đó thúc đẩy liên kết vùng…v.v.
Ba là, nâng cao hơn nữa hiệu quả trong điều hành, phối hợp chính sách kinh tế (đặc biệt giữa chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa, chính sách giá cả và các chính sách vĩ mô khác) nhằm bình ổn tỷ giá, lãi suất và thị trường tài chính - tiền tệ, góp phần thúc đẩy tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô. Theo đó, tiếp tục phương châm chính sách tài khóa mở rộng, có trọng tâm, trọng điểm, gắn với đẩy mạnh giải ngân đầu tư công; chính sách tiền tệ chủ động, nới lỏng thận trọng, linh hoạt; quan tâm hơn đến rủi ro hệ thống tài chính và liên thông thị trường tài chính – bất động sản.
Bốn là, quyết liệt đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế, nhất là các doanh nghiệp, dự án yếu kém, TCTD yếu kém nhằm góp phần huy động và phân bổ nguồn lực hiệu lực hơn, giảm mạnh chi phí vận hành, duy trì tốn kém. Cùng với đó, chất lượng và hiệu quả đầu tư công cần được chú trọng.
Cuối cùng, chú trọng cải thiện chất lượng tăng trưởng, trong đó tập trung nâng cao năng suất lao động (xem xét thành lập Ủy ban năng suất quốc gia), tăng khả năng đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) trong tăng trưởng chung; đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế nhằm phân bổ, sử dụng nguồn lực hiệu quả hơn như nêu trên; xây dựng chiến lược và giải pháp tăng tính độc lập, tự chủ, tự cường và nâng cao sức chống chịu của nền kinh tế.