MỚI NHẤT!

Đọc nhanh >>

Nguồn vốn nào để xây dựng hệ thống cảng biển hiện đại?

Nguồn vốn nào để xây dựng hệ thống cảng biển hiện đại?

Nhu cầu vận chuyển hàng hóa của các doanh nghiệp (DN) qua cảng biển ngày một lớn. Bởi vậy, nếu hệ thống cảng biển không được đầu tư bài bản sẽ không đáp ứng kịp nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, nguồn vốn nào để xây dựng hệ thống cảng biển đồng bộ, hiện đại đang là bài toán khó.

Vai trò cảng biển dần được khẳng định

Tại cuộc hội thảo mới đây về quy hoạch cảng biển, ông Nguyễn Xuân Sang - Cục trưởng Cục Hàng hải Việt Nam (Bộ Giao thông Vận tải – GTVT) cho biết, quy hoạch phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định 2190/QĐ-TTg ngày 24/12/2009 và duyệt điều chỉnh tại Quyết định 1037/QĐ-TTg ngày 24/6/2014.

Trên cơ sở quy hoạch được duyệt, Bộ GTVT đã lập và phê duyệt Quy hoạch chi tiết 6 nhóm cảng biển và một số cảng biển trọng điểm, ưu tiên. Các quy hoạch trên là cơ sở quan trọng định hướng cho việc đầu tư xây dựng, khai thác cảng biển, là công cụ không thể thiếu cho quản lý nhà nước chuyên ngành hàng hải.

“Bộ GTVT giao Cục Hàng hải Việt Nam và các đơn vị liên quan triển khai lập Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050” - Cục trưởng Nguyễn Xuân Sang cho biết.

Ông Nguyễn Nhật – Thứ trưởng Bộ GTVT cho biết, dù ảnh hưởng bởi dịch bệnh Covid-19 song khối lượng hàng hóa thông qua cảng biển trong năm qua tiếp tục duy trì đà tăng trưởng. Nếu năm 2000, khối lượng hàng hóa thông qua cảng biển đạt gần 82 triệu tấn thì đến năm 2020, con số này lên đến hơn 680 triệu tấn.

Theo Thứ trưởng Nhật, kết quả này có được là do Bộ GTVT và các địa phương đã chú trọng đầu tư hệ thống kết cấu hạ tầng cảng biển trong thời gian qua. Thứ trưởng cũng lưu ý, các địa phương, DN và các đơn vị liên quan cần đặc biệt quan tâm đến công tác quy hoạch, phát triển cảng biển bởi hệ thống cảng biển tốt sẽ góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Theo Đề án Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 đang được Bộ GTVT lấy ý kiến, hệ thống cảng biển Việt Nam thời gian qua có bước phát triển vượt bậc, cơ bản đáp ứng được mục tiêu phát triển theo quy hoạch được duyệt. Tính đến hết năm 2019, cả nước có 588 cầu cảng với tổng lượng hàng hóa thông qua đạt hơn 664 triệu tấn (gấp 8 lần năm 2000).

10 năm qua, hệ thống cảng biển Việt Nam xuất hiện nhiều cảng cửa ngõ kết hợp trung chuyển quốc tế tại khu vực phía Bắc và phía Nam, tiếp nhận tàu container đến 132.000 tấn tại khu bến Lạch Huyện (Hải Phòng), đến hơn 214.000 tấn tại khu bến Cái Mép (Bà Rịa - Vũng Tàu). 32 tuyến vận tải biển cũng được kết nối đến cảng biển Việt Nam. Trong đó, 25 tuyến vận tải quốc tế và 7 tuyến vận tải nội địa.

Đề án cho rằng cần ưu tiên các nguồn vốn đầu tư lớn đảm bảo phát triển cảng biển theo hướng đồng bộ, đi thẳng vào hiện đại. Không đầu tư phân tán nhỏ lẻ tại các cảng biển, khu bến có quy mô lớn, bao gồm các cảng cửa ngõ quốc tế, cảng phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội cả nước hoặc liên vùng.

Sẽ cần 200 nghìn tỷ đồng để đầu tư 

Cũng theo Đề án được xây dựng, tổng kinh phí để phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam đến năm 2030 ước tính khoảng từ 150-200 nghìn tỷ đồng, không bao gồm kinh phí đầu tư, đối với các bến cảng, cầu cảng chuyên dùng. Trong đó, kết cấu hạ tầng công cộng cảng biển dự kiến khoảng từ 35-40 nghìn tỷ đồng. Việc rót vốn đầu tư, phát triển cảng biển được bố trí theo thứ tự ưu tiên từ cấp 1-3.

Với tổng mức đầu tư lớn như vậy, rõ ràng để xây dựng được hệ thống cảng biển đồng bộ, hiện đại như đề án vạch ra thì Bộ GTVT còn nhiều việc phải làm. Liên quan đến việc huy động nguồn vốn thực hiện, Bộ GTVT cho rằng sẽ tiếp tục hoàn thiện cơ chế để khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, DN thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển cảng biển theo quy hoạch.

Tại Đề án, đơn vị tư vấn cũng đã đề xuất các dự án ưu tiên đầu tư. Trong đó, đối với cảng tổng hợp, container là xây dựng các bến tiếp theo thuộc cảng cửa ngõ quốc tế Hải Phòng, Bà Rịa - Vũng Tàu; Giai đoạn khởi động cảng Liên Chiểu (Đà Nẵng); Di dời, chuyển đổi công năng các bến cảng trên sông Cấm (từ cảng Đoạn Xá đến cảng Vật Cách) thuộc cảng biển Hải Phòng và khu bến trên sông Sài Gòn phù hợp với quy hoạch liên quan.

Đối với cảng chuyên dùng, đơn vị tư vấn đề xuất tập trung các bến cảng gắn với các khu công nghiệp, khu kinh tế ven biển, các khu liên hợp công nghiệp luyện kim, lọc hóa dầu, trung tâm nhiệt điện sử dụng than, khí thiên nhiên hóa lỏng và các bến cảng khách quốc tế gắn với các trung tâm du dịch quốc gia.

Đối với luồng vào cảng, kiến nghị tập trung đầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp các tuyến luồng hàng hải: Hải Phòng; Hòn Gai - Cái Lân, Cẩm Phả (Nhóm 1). Luồng Nghi Sơn, Thanh Hóa; luồng Cửa Lò, Nghệ An (Nhóm 2). Luồng hàng hải Đà Nẵng (Tiên Sa - Thọ Quang, Liên Chiểu), luồng hàng hải Ba Ngòi, Quy Nhơn (Nhóm 3)…

Theo Minh Hữu

Theo Pháp luật Việt Nam

Trở lên trên