Thực hiện 3 Chương trình mục tiêu quốc gia còn “vướng”, do đâu?
Bên cạnh kết quả đạt được, Đoàn giám sát của Quốc hội chỉ rõ những vướng mắc, hạn chế khiến cho việc hoàn thành mục tiêu giải ngân vốn ngân sách trung ương đến năm 2025 cho 3 Chương trình mục tiêu quốc gia là rất khó khăn.
- 30-10-2023Đề xuất tăng phí đăng kiểm
- 30-10-2023Dự kiến tiền lương thấp nhất của công chức, viên chức từ ngày 1/7/2024
- 30-10-2023Việt Nam và quốc gia 'mỗi năm tàu chỉ trễ 54 giây' sẽ làm điều 'chưa từng có' vào tháng 12 tới
Quốc hội khóa XV dành toàn bộ ngày làm việc hôm nay 30/10, tại Kỳ họp thứ 6 để giám sát tối cao về chuyên đề “Việc triển khai thực hiện các nghị quyết của Quốc hội về các Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2025, giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025, phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030”.
Hàng trăm nghìn tỷ đồng cho 3 chương trình mục tiêu quốc gia
Trình bày báo cáo tóm tắt về kết quả giám sát, ông Y Thanh Hà Niê Kđăm - Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội, Phó Trưởng Đoàn giám sát cho biết, kết quả triển khai các chương trình giai đoạn này bước đầu đạt được một số kết quả tích cực, bám sát các Nghị quyết của Quốc hội; cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội vùng nông thôn, miền núi được cải thiện.
Chương trình nông thôn mới giai đoạn 2021-2025 được Quốc hội thông qua năm 2021 có tổng kinh phí tối thiểu là 196.332 tỷ đồng. Kế thừa và phát huy kết quả các giai đoạn trước, phong trào xây dựng nông thôn mới của cả nước đã bám sát mục tiêu: “gắn với thực hiện có hiệu quả cơ cấu lại ngành nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn, quá trình đô thị hoá, đi vào chiều sâu, hiệu quả, bền vững”.
Theo số liệu của Bộ Tài chính, lũy kế đến hết tháng 06/2023, vốn đầu tư công năm 2022 chuyển sang thực hiện năm 2023 giải ngân đạt khoảng 83%; vốn thực hiện năm 2023 đạt khoảng 44,5%.
Tính đến 30/6/2023, cả nước có 6.022/8.177 xã (73,65%) đạt chuẩn nông thôn mới, 1.331 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao và 176 xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu; có 263/644 đơn vị cấp huyện (40,8%) được công nhận hoàn thành nhiệm vụ/đạt chuẩn nông thôn mới; 19 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có 100% số xã đạt chuẩn nông thôn mới (trong đó, có 5 tỉnh hoàn thành chương trình nông thôn mới).
Trong khi đó, Chương trình giảm nghèo được Quốc hội phê duyệt chủ trương đầu tư năm 2021 có tổng vốn tối thiểu là 75.000 tỷ đồng. Đoàn giám sát cũng đánh giá kết quả triển khai thực hiện Chương trình đã cơ bản bám sát mục tiêu “Thực hiện giảm nghèo đa chiều, bao trùm, bền vững”. Nhiều địa phương có mô hình hay, cách làm sáng tạo đạt hiệu quả trong quá trình tổ chức thực hiện.
Tổng nguồn vốn thực hiện Chương trình từ tháng 12/2021 đến năm 2023 là 23.130,261 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ 30,84% tổng nguồn vốn 5 năm, trong đó chủ yếu là nguồn vốn ngân sách trung ương chiếm khoảng 95%. Vốn nhận ủy thác từ ngân sách địa phương đến 30/6/2023 lũy kế là 34.527 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 10,8%.
Năm 2021, tỷ lệ hộ nghèo giảm 0,52% so với năm 2020. Năm 2022, tỷ lệ hộ nghèo giảm 1,17% và ước thực hiện năm 2023 giảm 1,1%, tỷ lệ giảm nghèo dân tộc thiểu số giảm trên 3%, đạt và vượt mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng XIII, Nghị quyết 24 của Quốc hội đã đề ra.
Còn Chương trình dân tộc thiểu số được Quốc hội phê duyệt chủ trương đầu tư vào tháng 6/2020, có kinh phí tối thiểu làm tròn là 137.664 tỷ đồng.
Giải ngân vốn đầu tư công Trung ương đến tháng 6/2023 (bao gồm cả vốn 2022 kéo dài sang năm 2023) đạt 22%, ước đến tháng 9/2023 đạt 52%, nhiều địa phương giải ngân trên 60%.
Chính phủ cho biết tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số năm 2022 giảm 3,4%, đạt và vượt mục tiêu kế hoạch giao; nhiều chỉ tiêu về hạ tầng, kinh tế-xã hội khác cơ bản đều đạt so với mục tiêu của chương trình.
Khả năng hoàn thành mục tiêu giải ngân rất khó khăn
Bên cạnh kết quả đạt được, Đoàn giám sát của Quốc hội cũng thẳng thắn chỉ rõ các hạn chế, bất cập. Trước hết, các cơ quan bộ, ngành liên quan còn hạn chế trong quản lý và tổ chức thực hiện, nhất là việc chậm ban hành văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền quản lý, nội dung chưa rõ ràng, khó thực hiện, có nội dung trích dẫn dẫn đến nhiều văn bản khác.
Cạnh đó, Ban Chỉ đạo chung Chương trình các cấp tuy đã được kiện toàn, thành lập song cơ chế quản lý, chỉ đạo, lãnh đạo vẫn theo tính chất ngành dọc của từng cơ quan; hiệu quả phối hợp liên ngành (theo chiều ngang) chưa thật sự chuyển biến rõ nét, nhất là giúp Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ nghiên cứu, chỉ đạo và phối hợp giải quyết những công việc liên quan đến quản lý và tổ chức thực hiện các chương trình...
Cũng theo đoàn giám sát, còn có sự chồng lấn về địa bàn, nội dung thực hiện chương trình (nhất là Chương trình giảm nghèo bền vững và Chương trình dân tộc) ở các tỉnh vùng dân tộc thiểu số. Kết quả giảm nghèo chưa đạt được mục tiêu đa chiều, chưa bền vững, nguy cơ tái nghèo còn cao.
Nguồn vốn bố trí chưa tương xứng so với mục tiêu, yêu cầu đặt ra. Việc lập kế hoạch vốn, phân bổ vốn, giao vốn ngân sách trung ương chậm, đến tháng 5/2022 Chính phủ mới trình Quốc hội phân bổ vốn các Chương trình. Việc lập kế hoạch xác định nhu cầu vốn, đối tượng thực hiện dự án, tiểu dự án của các địa phương, công tác thẩm định của các bộ ngành chưa sát thực tế; giao vốn sự nghiệp chưa có sự thống nhất…
Tiến độ giải ngân vốn ngân sách trung ương cả 3 chương trình còn chậm, nhất là vốn sự nghiệp. Đến 31/01/2023 vốn năm 2022 giải ngân chỉ đạt 42,49% kế hoạch (vốn đầu tư phát triển đạt 54% kế hoạch, vốn sự nghiệp chỉ đạt 7,82% kế hoạch); giải ngân kinh phí sự nghiệp nguồn ngân sách trung ương năm 2023 đến tháng 6/2023 mới đạt 5,33% kế hoạch, giải ngân vốn đầu tư công ước đến 31/8/2023 mới đạt 41,9% kế hoạch.
“Khả năng hoàn thành mục tiêu giải ngân vốn ngân sách trung ương đến năm 2025 là rất khó khăn” –Phó Trưởng Đoàn giám sát Y Thanh Hà Niê Kđăm nói.
Ngoài ra, việc nắm bắt các vấn đề, hướng dẫn, hỗ trợ, tháo gỡ các vướng mắc trong triển khai thực hiện chương trình chưa kịp thời. Tình trạng cát cứ, manh mún, phân tán, làm cho các cơ chế lồng ghép, phân cấp, phân quyền, cơ chế đặc thù theo chủ trương của Đảng và Nhà nước không được phát huy hiệu quả trên thực tế, làm lãng phí nguồn lực, các chương trình chưa đạt được hiệu quả như mong muốn.
Có cơ chế đặc thù về vốn
Bên cạnh nguyên nhân khách quan, Đoàn giám sát cũng chỉ ra hàng loạt nguyên nhân chủ quan. Trong đó cho rằng năng lực thực tiễn của một bộ phận cán bộ, công chức tham mưu, xây dưng văn bản, chính sách; quản lý, tổ chức thực hiện còn hạn chế về số lượng và chất lượng, nhất là cấp huyện, xã vùng dân tộc thiểu số và miền núi.
Có tình trạng đùn đẩy, né tránh, tâm lý sợ trách trách nhiệm của một bộ phận cán bộ, công chức trong thực thi nhiệm vụ, nhất là cơ sở pháp lý để thực hiện một số chính sách còn chưa rõ ràng, đồng bộ.
“Nghị quyết của Quốc hội phê duyệt chủ trương đầu tư 3 Chương trình giao Chính phủ xây dựng chính sách, cơ chế quản lý đặc thù, trên cơ sở thực hiện theo Luật Đầu tư công, Luật Ngân sách Nhà nước và các quy định pháp luật khác làm cho Chính phủ và các địa phương chưa cụ thể hóa được theo thẩm quyền” - báo cáo giám sát nêu.
Do đó, Đoàn giám sát kiến nghị Quốc hội giao Chính phủ tập trung vào việc thí điểm phân cấp cho cấp huyện chủ động quyết định, điều chỉnh cơ cấu nguồn vốn, danh mục dự án đầu tư thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia trên địa bàn; đề xuất, trình cấp có thẩm quyền điều chỉnh một số mục tiêu, chỉ tiêu, nội dung của các Chương trình mục tiêu quốc gia để triển khai thực hiện, bảo đảm hiệu quả, khả thi, phù hợp với tình hình thực tiễn, tránh lãng phí, tiêu cực.
Cùng với đó, Chính phủ phải rà soát, sửa đổi, bổ sung những cơ chế, chính sách chưa phù hợp, khó thực hiện thuộc thẩm quyền; rà soát, kiến nghị cấp có thẩm quyền xử lý sớm vốn tồn đọng do giải ngân chậm; có cơ chế đặc thù về vốn thực hiện các chương trình cho các tỉnh khó khăn miền núi.
VOV