Tỉ giá lại ngăn đà tăng của chứng khoán
Tỉ giá chưa hạ nhiệt, lãi suất gửi tiết kiệm tăng và khối ngoại liên tục bán ròng hàng ngàn tỉ đồng… đã ảnh hưởng tới thị trường chứng khoán hiện nay
Sau 4 tuần tăng liên tiếp, chứng khoán trong nước tuần qua đảo chiều giảm điểm khá mạnh. VN-Index giằng co nhiều phiên nhưng không vượt nổi ngưỡng kháng cự 1.280 - 1.300 điểm. Ở 2 phiên giảm mạnh trong tuần qua, thanh khoản đều tăng đột biến. Điều đó cho thấy các nhà đầu tư lớn, nhà đầu tư nước ngoài đã chủ động chốt lời, rút tiền ra khỏi thị trường khi họ cảm nhận những rủi ro liên quan lãi suất, tỉ giá đang quay lại.
Không chỉ là áp lực chốt lời
Trong khi đó, nhà đầu tư cá nhân trong nước lại tỏ ra khá tự tin, "cân" hết lượng cổ phiếu bán ra của các nhà đầu tư lớn và khối ngoại trong những phiên thị trường giảm mạnh. Điển hình như phiên cuối tuần (24-5), nhà đầu tư cá nhân mua ròng lượng cổ phiếu trị giá hơn 2.700 tỉ đồng; còn các tổ chức, khối tự doanh công ty chứng khoán và khối ngoại bán ròng tổng cộng hơn 2.600 tỉ đồng.
"Áp lực bán ròng của khối ngoại là yếu tố cần phải chú ý. Dù họ đã bán ròng liên tiếp từ năm ngoái đến nay nhưng hiện tốc độ và khối lượng bán vẫn duy trì ở mức cao" - ông Võ Kim Phụng, Trưởng Phòng Phân tích - Công ty Chứng khoán BETA, nhận xét.
Ông Đinh Quang Hinh, Trưởng Bộ phận Vĩ mô và chiến lược thị trường - Công ty Chứng khoán VNDIRECT, cho rằng rủi ro ngắn hạn của thị trường chứng khoán đang tăng lên khi đón nhận một số thông tin kém tích cực cả trong nước lẫn quốc tế. Các số liệu vĩ mô Mỹ được công bố tuần qua - như chỉ số PMI (quản trị nhà mua hàng), số đơn trợ cấp thất nghiệp thấp hơn dự báo - cho thấy kinh tế nước này vẫn tăng trưởng mạnh mẽ. Điều đó làm dấy lên lo ngại việc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) có thể trì hoãn giảm lãi suất điều hành để tiếp tục chống lạm phát. Đây là yếu tố bất lợi cho các đồng tiền khác trên thế giới, trong đó có VNĐ.
Trong nước, áp lực tỉ giá đang gia tăng trở lại, bất chấp việc Ngân hàng Nhà nước đã bán ra một lượng ngoại tệ để can thiệp, đồng thời tổ chức nhiều phiên đấu thầu vàng miếng nhằm hạ nhiệt thị trường này và hút về một lượng VNĐ khá lớn. Lãi suất qua đêm liên ngân hàng tuần qua đã vượt ngưỡng 5%/năm; Ngân hàng Nhà nước cũng tăng lãi suất thị trường mở (OMO) thêm 0,25 điểm %, lên 4,5%/năm… Những yếu tố này gây áp lực với giới đầu tư chứng khoán, họ lo ngại việc ổn định tỉ giá có thể làm cho lãi suất không còn "rẻ" nữa.
Chưa đáng lo?
Ông Trần Hoàng Sơn, Giám đốc chiến lược thị trường - Công ty Chứng khoán VPBankS, nhận định tỉ giá trong ngắn hạn tiếp tục chịu sức ép khi FED trì hoãn quá trình hạ lãi suất. Đi cùng với đó là tác động từ giá vàng thế giới lập đỉnh, nhu cầu vàng duy trì ở mức cao và sự phục hồi của hoạt động nhập khẩu tăng so với cùng kỳ năm ngoái.
"Tỉ giá là một trong những biến số có thể tác động tới diễn biến của thị trường chứng khoán. Nhìn lại từ năm 2008 đến 2023, mỗi khi tỉ giá tăng quá 2%, chứng khoán có xác suất điều chỉnh giảm khá cao. Tính từ đầu năm 2024, tỉ giá đã biến động hơn 4,6%. Đây chính là tác động gián tiếp khiến nhà đầu tư nước ngoài liên tục bán ròng" - ông Sơn phân tích.
Trong bối cảnh rủi ro ngắn hạn gia tăng, chuyên gia VPBankS dự báo nếu VN-Index để mất mốc hỗ trợ 1.250 điểm, kịch bản điều chỉnh sâu có thể trở lại.
Ở góc độ quản lý, ông Phạm Chí Quang, Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ - Ngân hàng Nhà nước, cho rằng tất cả khó khăn, thách thức của thị trường ngoại tệ trong nước chỉ là ngắn hạn. Trong thời gian tới, với đà phục hồi khả quan của xuất khẩu, nguồn cung ngoại tệ sẽ dồi dào hơn.
"Doanh nghiệp vừa qua tăng mạnh mua ngoại tệ kỳ hạn là yếu tố làm giảm bớt nhu cầu trong tương lai, qua đó giúp cung - cầu ngoại tệ được cải thiện. Giới tài chính quốc tế duy trì quan điểm về khả năng FED sẽ cắt giảm lãi suất vào cuối năm 2024, từ đó giảm bớt áp lực mất giá cho các đồng tiền trên thế giới, trong đó có VNĐ. Nhiều tổ chức quốc tế dự báo khả năng VNĐ tăng giá trở lại khi các yếu tố căn bản này dần được hiện thực hóa" - ông Phạm Chí Quang cho biết.
Với lãi suất huy động, dù đã liên tục tăng từ tháng 3 đến nay nhưng mặt bằng chung vẫn duy trì ở mức thấp. Nhiều ngân hàng thương mại đã tăng lãi suất gửi tiết kiệm từ 0,2 - 0,5 điểm % ở các kỳ hạn, chủ yếu là kỳ hạn ngắn. Mặt bằng lãi suất đầu vào hiện vẫn thấp hơn giai đoạn trước dịch COVID-19 nên không lo ngại chính sách tiền tệ đảo chiều tăng, mà vẫn duy trì ở mức thấp.
Theo ông Đinh Đức Quang, Giám đốc điều hành Khối Kinh doanh tiền tệ - Ngân hàng UOB Việt Nam, hiện lãi suất huy động kỳ hạn 12 tháng tại các ngân hàng thương mại quốc doanh chỉ khoảng 5%/năm, vẫn thấp hơn giai đoạn trước dịch COVID-19. Song, mặt bằng lãi suất quá thấp chưa hẳn đã tốt cho nền kinh tế. Khi mặt bằng lãi suất nhích lên, nhà đầu tư nước ngoài thấy để tiền ở Việt Nam có lợi nên sẽ từ bỏ ý định rút vốn và tiếp tục đầu tư.
"VN-Index có thể có những nhịp điều chỉnh giảm nhất định nhưng nếu nhìn vào đà phục hồi và tăng trưởng của nền kinh tế, xu hướng của thị trường vẫn khả quan trong trung - dài hạn. Các ngành, lĩnh vực có triển vọng cho giai đoạn tới là phần mềm, viễn thông, bán lẻ, bất động sản khu công nghiệp, logistics, xuất khẩu" - ông Đinh Đức Quang đánh giá.
Dù lãi suất đầu vào tăng, sức ép tỉ giá vẫn cao nhưng chuyên gia kinh tế - TS Đinh Thế Hiển cho rằng chứng khoán hiện nay vẫn hấp dẫn do kênh đầu tư bất động sản chưa thật sự phục hồi, thậm chí còn khó khăn. Có điều, khi đầu tư chứng khoán cần nhìn dài hạn và có chiến lược để tránh những đợt sụt giảm trong ngắn hạn.
TS Đinh Thế Hiển nhấn mạnh: "Lãi suất huy động có tăng thêm 0,5 - 1 điểm % trong năm 2024 thì vẫn thấp. Việc tăng lãi suất chủ yếu là để thu hút dòng tiền gửi tiết kiệm, đáp ứng nhu cầu tăng trưởng tín dụng của nền kinh tế, cũng là mặt tích cực trong trung - dài hạn. Khi kinh tế tăng trưởng, các doanh nghiệp hoạt động tốt hơn, chứng khoán cũng hưởng lợi chứ không hẳn là đáng lo".
Trước những dấu hiệu rủi ro ngắn hạn đang gia tăng, các chuyên gia khuyến nghị nhà đầu tư cần đánh giá lại trạng thái danh mục đầu tư hiện tại, nên đặt ưu tiên quản trị rủi ro lên hàng đầu. Những nhà đầu tư ngắn hạn đang sử dụng đòn bẩy (margin) hoặc nắm giữ tỉ trọng cổ phiếu cao cần tận dụng các nhịp phục hồi kỹ thuật để giảm trạng thái, hạ bớt tỉ trọng cổ phiếu về mức an toàn nhằm quản trị rủi ro danh mục đầu tư.
Người lao động