MỚI NHẤT!

Đọc nhanh >>

Trực tuyến tọa đàm "Luật CNTT và định hướng phát triển trong thời gian tới"

ictnews Ngày 15/8/2017, Bộ TT&TT tổ chức tọa đàm "Luật CNTT và định hướng phát triển trong thời gian tới". Đây là dịp để Bộ TT&TT tham khảo ý kiến đánh giá toàn diện, đa chiều của các chuyên gia, các doanh nghiệp về Luật CNTT và định hướng phát triển trong tương lai.

Tham dự tọa đàm có đại diện các đơn vị trong Bộ TT&TT, Hiệp hội Internet, Hội Tin học Việt Nam, Hội Vô tuyến điện tử, Sở TT&TT TP Hà Nội và đại diện các doanh nghiệp như: Viettel, MobiFone, VNPT, FPT, CMC, VTC, DTT, VC Corp, Nhaccuatui, Next Tech, Clip TV… cùng nhiều doanh nghiệp ICT khác.


Toàn cảnh buổi tọa đàm

Toàn cảnh buổi tọa đàm

Luật CNTT được Quốc hội thông qua năm 2006 là văn bản luật đầu tiên về CNTT ở Việt Nam. Sự ra đời của Luật với các quy định rõ ràng, minh bạch đã tạo ra hành lang pháp lý quan trọng về quản lý nhà nước cho việc phát triển và ứng dụng CNTT thời gian qua. Với quan điểm hỗ trợ và thúc đẩy phát triển ngành, Luật CNTT đã quy định những điều kiện thiết yếu cơ bản để phát triển công nghiệp CNTT thành một ngành kinh tế mũi nhọn, đồng thời đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội trên phạm vi cả nước.

Sau 10 năm thi hành, Luật CNTT đã bộc lộ một số bất cập trong bối cảnh CNTT là ngành phát triển nhanh, với các thay đổi có tác động mang tính đột phá. Vai trò của CNTT trong mọi mặt đời sống xã hội, kinh tế, thương mại, giáo dục, quốc phòng… ngày càng quan trọng và được nâng lên tầm cao mới. Từ một lĩnh vực kỹ thuật có tính hỗ trợ, CNTT đã trở thành một động lực phát triển có tác động lan toả, toàn diện, giúp chuyển đổi các mô hình kinh doanh, nghiệp vụ truyền thống thông qua thúc đẩy sáng tạo, đổi mới dựa trên công nghệ số. Sự chuyển dịch mạch mẽ đó đặt ra nhiều thách thức và đòi hỏi các quy định mới phù hợp trong lĩnh vực CNTT.

Thứ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Thành Hưng nhận định, sau hơn 10 năm triển khai thi hành Luật CNTT, tình hình quốc tế, sự phát triển của Việt Nam và bản thân ngành CNTT đã có nhiều thay đổi. Tại Việt Nam, năng lực quản lý, nhu cầu ứng dụng, phát triển CNTT và trình độ dân trí cũng được nâng cao. Thế giới đã bước sang thập niên thứ hai của thế kỷ XXI với những thay đổi cơ bản về khoa học, công nghệ, mức độ cạnh tranh trên trường quốc tế. Đang có những xu hướng phát triển công nghệ mới với nhiều đột phá và sáng tạo như IoT, SMAC, AI, Robotic… tất cả các công nghệ trên sẽ là nền tảng để thế giới bước vào cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Vì vậy, việc rà soát, hoàn thiện các chính sách, pháp luật về CNTT để phù hợp với xu thế phát triển và thực tế càng trở nên cấp bách. Chính phủ đã yêu cầu Bộ TT&TT chủ trì, xây dựng Đề án sửa đổi, bổ sung Luật CNTT.


Thứ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Thành Hưng phát biểu tại Tọa đàm.

Thứ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Thành Hưng phát biểu tại Tọa đàm.

Phát biểu khai mạc buổi tọa đàm, Thứ trưởng Nguyễn Thành Hưng bày tỏ, với sự hiện diện đông đảo của các nhà quản lý, các Hiệp hội, các doanh nghiệp, các chuyên gia trong lĩnh vực CNTT, ông tin tưởng rằng nhiều vấn đề bức xúc, nhiều vấn đề tồn tại của ngành CNTT sẽ có được những kiến nghị, đề xuất tốt trong việc tổng kết 10 năm thi hành Luật CNTT.

“Có thể nói, việc tổng kết 10 năm thi hành Luật CNTT là rất quan trọng. Tuy nhiên, tôi cho rằng, với các doanh nghiệp, với ngành CNTT thì không chỉ chịu sự tác động riêng của Luật CNTT mà còn bị tác động bởi nhiều Luật khác. Bản thân những người kinh doanh, hoạt động trong lĩnh vực CNTT cũng biết rằng bên cạnh Luật CNTT còn chịu chi phối bởi nhiều Luật khác. Do đó, quan điểm của chúng tôi, khi tổng kết Luật CNTT, không chỉ là nói đến những tồn tại, những mặt được, chưa được của Luật CNTT mà cũng mong muốn các đại biểu có những đề xuất, kiến nghị với Quốc hội, Chính phủ về những nội dung, nội hàm ở các luật khác có tác động đến ngành CNTT, tác động đến hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp CNTT”, Thứ trưởng chia sẻ.

Thứ trưởng cũng cho biết, qua 10 năm thi hành Luật CNTT, những suy nghĩ, quan điểm của chúng ta về CNTT đã có nhiều thay đổi, do sự thay đổi nhanh chóng về khoa học công nghệ. Ví dụ như, khi triển khai Luật CNTT, chúng ta dựa trên nền tảng về hạ tầng, dịch vụ, công nghiệp và nguồn nhân lực. Ngay về hạ tầng, trước đây chúng ta nghĩ nhiều đến hạ tầng viễn thông, nhưng ngày nay ta đặt vấn đề về hạ tầng thiết bị và các hạ tầng khác như hạ tầng kết nối qua các thiết bị, hạ tầng thanh toán cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực nội dung số… Đó là những vấn đề nảy sinh, phát sinh chưa được thể hiện rõ trong nội hàm các văn bản pháp luật. Do vậy, trong quá trình triển khai còn gặp khó khăn.

Hay với vấn đề ứng dụng, theo cách hiểu truyền thống trước đây là ứng dụng CNTT trong cơ quan nhà nước, trong xây dựng Chính phủ điện tử nhưng mở rộng ra nói đến vấn đề ứng dụng hiện nay là hướng đến xây dựng một xã hội kết nối, thể hiện các mối quan hệ giữa Chính phủ, người dân, doanh nghiệp. Vì thế, có những vấn đề chúng ta phải xem xét, đặt vấn đề một cách nghiêm túc. Còn về Công nghiệp CNTT, mối quan tâm từ xưa đến nay, nhiều lúc chúng ta chỉ nghĩ công nghiệp làm thế nào để Nhà nước có sự quan tâm, đặt ra các chính sách ưu đãi, giảm thuế cho doanh nghiệp. Nhưng ngoài những vấn đề đó ra, hiện nay còn rất nhiều vấn đề khác mà chúng ta cần quan tâm. Đặc biệt, nguồn nhân lực là vấn đề hỗ trợ rất quan trọng cho 3 mảng trên. Thứ trưởng đề nghị, là những nhân vật chính của buổi tọa đàm, đại diện các doanh nghiệp, các nhà báo sẽ có những ý kiến đóng góp khách quan, thẳng thắn để góp phần cho tổng kết 10 năm thi hành Luật CNTT và định hướng chính sách giai đoạn tới của Bộ có thể thể hiện được phần nào mong muốn của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực CNTT.

Đầu tiên, chúng tôi muốn đặt câu hỏi cho ông Bùi Quang Ngọc, Tổng Giám đốc FPT, một trong những doanh nghiệp ICT lớn với câu hỏi mang tính tổng quát.

Theo ông, hệ thống các văn bản pháp lý, chính sách về CNTT của Việt Nam hiện nay với các nghị quyết, chỉ thị, nghị định, luật và các văn bản khác như quyết định, quy hoạch đã phù hợp với sự phát triển của ngành CNTT hay chưa? Chúng ta cần điều chỉnh thế nào để đáp ứng được nhu cầu phát triển?


Ông Bùi Quang Ngọc, Tổng Giám đốc FPT

Ông Bùi Quang Ngọc, Tổng Giám đốc FPT

Ông Bùi Quang Ngọc: Câu hỏi này rất tổng quát, bởi vì các văn bản có nhiều mà cũng có rất nhiều vấn đề có thể thảo luận, tuy nhiên tôi chỉ xin nói về một số lĩnh vực khá cụ thể. Về các văn bản chính sách quan trọng nhất của một ngành công nghiệp, thúc đẩy một ngành công nghiệp phát triển là phải tạo ra Cung và Cầu cho thị trường. Trong khi đó thì các văn bản, thể chế hiện nay của mình về mặt tạo ra Cầu rất yếu. Ví dụ Nghị quyết 36a về Chính phủ điện tử, hiệu lực thì giao nhiệm vụ cho rất nhiều đơn vị, Bộ này phải làm thế này, UBND tỉnh kia phải làm thế kia, văn bản thì nói rất hay, Nghị quyết 36a thì nói hay lắm, nếu như theo yêu cầu của văn bản với những mục tiêu về chính quyền điện tử, giao thông thông minh thì chỉ vài năm sau là nước ta có thể sánh ngang với Singapore về ứng dụng CNTT trong các cơ quan nhà nước. Nhưng có một thực tế là về tính hiệu lực thì rất yếu, thậm chí có những nơi còn chả làm gì cả.

Tôi cho rằng, khi nhà nước xây dựng văn bản thì phải có tính khả thi, chú trọng tính hiệu lực, tính khả thi và có chế tài đi kèm nếu không thực hiện. Văn bản chính sách trong chừng mực nào đấy cần thúc đẩy mạnh vai trò của cơ quan nhà nước, mà ở tất cả quốc gia thì nhà nước là người tạo Cầu lớn nhất, nhà nước phải đi tiên phong, xong mới đến doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải tự thân vận động vì nhu cầu cạnh tranh họ phải bắt buộc tin học hóa. Còn nhà nước phải tạo Cầu kích thích sự phát triển, Cầu nhà nước trong văn bản ra không rõ. Chính quyền với ngân sách của mình rất khó khăn, khi cắt giảm ngân sách thì ngân sách dành cho tin học bị cắt đầu tiên. Các cơ quan nhà nước nếu trụ sở làm việc chật hay thiếu ô tô còn băn khoăn, chứ nếu thiếu tiền thì thiết bị về tin học đang dùng rồi cứ để nguyên đấy. Để thúc đẩy ngành công nghiệp CNTT phát triển phải tạo được Cầu từ phía nhà nước, phải nêu rõ được trong các chính sách của nhà nước, nhà nước cần phải tạo Cầu cho việc phát triển tin học hóa, sau đó mới đến chính sách thúc đẩy khác.

Ví dụ về thuế, VINASA đã chủ động làm việc với Chính phủ về thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân ngành phần mềm cũng bắt đầu được hưởng từ chính sách thuế nhưng không nhiều. Chỉ có những doanh nghiệp, khu công nghệ cao thì được hưởng, nhưng còn với các starup, cá nhân người Việt đang ngồi ở Việt Nam làm việc cho nước ngoài thì chưa có chính sách ưu đãi họ, thúc đẩy họ quay trở về làm việc cho Việt Nam. Do đó phải có chính sách thuế thu nhập cá nhân rất rõ để thúc đẩy, Bộ TT&TT khi xây dựng chính sách rất cần chú trọng phát triển nhân lực. Mục tiêu huy động nguồn lực xã hội cũng phải có chính sách thúc đẩy, ví dụ việc áp dụng thuế điện tử, hải quan điện tử làm tốt rồi, nhà nước cần có thêm những thể chế thúc đẩy việc điện tử hóa để tạo nguồn Cầu cho ngành CNTT, tạo yêu cầu cho xã hội phải tuân thủ, ngân sách nhà nước phải đổ tiền vào để ứng dụng CNTT.

Nhà nước cũng phải gỡ bỏ những chính sách quy định cản trở, hạn chế, ví dụ như chính sách về phí với dịch vụ Internet. Nói về Cầu Chính phủ, Chính phủ điện tử và hoạt động khác dùng ngân sách nhà nước, Nghị định 102 hướng dẫn lập dự án CNTT sử dụng vốn nhà nước quá phức tạp. Vì Nghị định 102 được xây dựng dựa trên cách thức của làm dự án xây dựng cơ bản. Một cách thức “đầy mùi công trường” áp dụng cho chi phí CNTT đầy trí tuệ. Ví dụ, chi phí xây lắp, chi phí thiết bị, được áp cho CNTT, chi phí đào tạo phần mềm, được áp vào chi phí thiết bị, việc áp dụng này rất méo mó, cực kỳ khó triển khai, không thể làm được. Bộ Tài chính 2 năm chuẩn bị xong 1 dự án, có dự án 3 năm, có dự án CNTT ngân sách tỷ lệ chi 85% phần cứng, 15% dịch vụ, chi phí này là méo mó, gây khó khăn cho doanh nghiệp.

Bây giờ chúng tôi muốn nghe thêm một ý kiến nữa của doanh nghiệp cũng có nhiều đóng góp về chính sách trong thời gian qua. Xin mời ông Nguyễn Trung Chính, Chủ tịch CMC.


Ông Nguyễn Trung Chính, Chủ tịch CMC

Ông Nguyễn Trung Chính, Chủ tịch CMC

Ông Nguyễn Trung Chính, Chủ tịch CMC: Đến với tọa đàm, CMC đã chuẩn bị báo cáo 5 trang khá đầy đủ các kiến nghị. Chúng tôi sẽ chuyển lại cho lãnh đạo Bộ. Tuy nhiên, nếu để phát biểu ngắn tôi xin có mấy ý. Luật CNTT ra đời năm 2009 thì CMC đã được hưởng lợi đầu tiên. Là doanh nghiệp viễn thông tư nhân duy nhất cho đến thời điểm hiện tại được làm trong lĩnh vực viễn thông. Luật 2009 cho tư nhân được phát triển trong các ngành nghề pháp luật không cấm, như trong đầu tư hạ tầng. Khi có Luật Viễn thông, trước đây các quan hệ trong lĩnh vực viễn thông được thực hiện bằng các chỉ thị, Nghị quyết, nhiều vấn đề dựa trên hệ thống về quy hoạch, nghị định. Khi có Luật thì tốt hơn rất nhiều, có cơ sở pháp lý khá đầy đủ cho hoạt động phát triển. Luật có những điểm thuận lợi, tích cực cho sự phát triển của CNTT là cơ bản.

Tuy nhiên đi tiếp những văn bản dưới luật, những nội dung còn rơi rớt lại của quá trình trước khi có văn bản Luật cũng như quá trình thực hiện, có nhiều văn bản đôi khi thậm chí trái lại tinh thần của Luật, hạn chế những điều Luật đã cho phép. Rất nhiều Thông tư, Nghị định đưa ra gây nhiều khó khăn cho doanh nghiệp. Ví dụ ngay như với Nghị quyết 36a cũng bị vướng câu chuyện là có sự phân biệt giữa các thành phần nhà nước, tư nhân. Tôi tin các doanh nghiệp nhà nước cũng không thích bị phân biệt đối xử. Họ cũng thích một môi trường, một thể chế, một luật chơi cho các thành phần. Nhà nước mong muốn được các điều kiện như tư nhân, còn ngược lại tư nhân cũng mong muốn những gì rào cản, mình không được tiếp cận thì rất khó khăn. Thậm chí có những quyết định của Chính phủ có điểm rất khó khăn. Như quy định về quỹ Viễn thông công ích bắt đầu từ Luật, sau đó Luật đưa ra quy định không có tính thị trường lắm khi Thủ tướng chính phủ sẽ quyết định mức phí và cách thu. Quyết định đó nếu không có những dự báo thuộc thuế hay phí, bản chất của phí là gì, cách thu, cách chi phải rất rõ ràng. Đôi khi kể cả quyết định của Thủ tướng cũng gây ra khó khăn nhất định. Nhìn chung, mức độ khó khăn của văn bản dưới luật rất nhiều và điều này chúng tôi đã liệt kê trong bản kiến nghị. Về vấn đề làm thế nào thúc đẩy nền kinh tế số phát triển: lĩnh vực CNTT đóng góp, là động lực quan trọng để phát triển kinh tế số. Để phát triển thì dịch vụ Internet, thoại, kết nối, dữ liệu… phải phát triển, phải làm thế nào ngày càng rẻ để khả năng tiếp cận dễ dàng, bình đẳng cho tất cả các đối tượng liên quan.

Gần đây có phát biểu của Cục Phát thanh Truyền hình và Thông tin điện tử, Bộ TT&TT trên báo chí về mạng xã hội: Tôi cho rằng cách phát biểu như thế có cảm giác là mọi người không nhìn thấy các mặt tích cực. Đi ngược lại tư tưởng nền kinh tế số là có một trong những chức năng cơ bản là chia sẻ tri thức. Mà không có gì tốt bằng công cụ mạng xã hội để chia sẻ tri thức thì anh lại nhìn thấy đó như một nguy cơ lớn. Đó là tư tưởng cần xem xét lại.

Chúng tôi cũng nêu nhiều chính sách hỗ trợ, ưu đãi. Tuy nhiên mình không đưa ra bàn cân so sánh. Ví dụ Việt Nam, Singapore hay Campuchia. Thủ tướng một đất nước như Campuchia cũng dùng mạng xã hội để lắng nghe các phản hồi rất tích cực của doanh nghiệp, người dân.

Xin mời ông Nguyễn Thế Trung, Giám đốc Công ty DTT trả lời câu hỏi này.


Ông Nguyễn Thế Trung - Giám đốc Công ty DTT

Ông Nguyễn Thế Trung - Giám đốc Công ty DTT

Ông Nguyễn Thế Trung: Chúng ta chuyển sang giai đoạn mới là nền kinh tế số, nền công nghiệp lần thứ 4 trong đó có nội hàm quan trọng nhất là một nền kinh tế mới với tài sản mới là tài sản số. Tài sản mới này đi kèm toàn bộ luật lệ chính sách mới để xác định rằng thế nào là tài sản số và ai được sở hữu tài sản số này? Điều này cũng kiến tạo ra các giai đoạn mới của nền kinh tế số. Theo tôi, nếu không có khái niệm tài sản số chúng ta sẽ không làm được gì cả. Ý tưởng tôi muốn truyền đạt ở đây là nếu chúng ta hình dung có môi trường mới trong đó có rất tài sản số thì việc giao tài sản này cho ai? Ai là người có quyền sử dụng nó sẽ là một vấn đề rất lớn mà Luật CNTT phải thay đổi, phải vượt lên các vấn đề về công nghệ và viễn thông đã từng có.

Từ góc độ kiến tạo, dữ liệu cực kỳ quan trọng. Như anh Quang Ngọc FPT có nói, Chính phủ là nhà đặt hàng cho các doanh nghiệp CNTT. Tuy nhiên, theo tôi đó lại chưa chắc đã quan trọng bằng số liệu, các dữ liệu CNTT. Sự đầu tư của Nhà nước hấp dẫn nhưng chưa hấp dẫn thực sự. nếu chúng ta mở ra câu chuyện số vừa là tài sản số, kiến tạo số rất quan trọng. nếu Chính phủ quy định rõ các dữ liệu của mình. Dữ liệu nào là mật, dữ liệu nào có thể công bố thì doanh nghiệp, thậm chí là người dân có thể khai thác và tạo ra rất nhiều lợi ích khác cho đất nước. Chẳng hạn, trong lĩnh vực du lịch thông minh, các doanh nghiệp có dữ liệu về du lịch thì có năng suất tăng gấp 3 lần các doanh nghiệp khác kể cả sử dụng nền tảng công nghệ. Trong các lĩnh vực khác cũng vậy. Nếu chúng ta tính đến sự thay đổi trong các giai đoạn tiếp theo thì cần đi đầu trong việc này.

Thực tế, trong giai đoạn số, doanh nghiệp rất cần các cơ quan nhà nước công khai minh bạch trong chính sách và triển khai các chính sách này. Việc công khai thông tin là để có thể nhìn thấy các bất cập, Nếu cứ để mờ ảo thế này thì chúng ta có thể đánh mất thị trường vào tay doanh nghiệp nước ngoài. Dù là chúng ta có bao nhiêu Nghị quyết, chính sách đi nữa thì cũng quay về mua sản phẩm của họ. Do đó, theo tôi, trong quản lý cần minh bạch các chỉ số. Chúng ta quyết liệt dành bao nhiêu phần trăm cho doanh nghiệp Việt Nam. Đặt ra chỉ tiêu cụ thể, các chỉ số và các doanh nghiệp Việt Nam có thể theo dõi. Đồng thời, chúng ta phải có chính sách bảo vệ cho doanh nghiệp Việt Nam, nhân rộng các mô hình thành công. Việc Bộ TT&TT có thể làm tốt hơn nữa là kiến tạo ra kinh tế số cho dân CNTT bằng câu chuyện về dữ liệu công. Hiện nay có xu hướng chính quyền số dữ liệu mở. Có thể đưa ra quy hoạch sử dụng dữ liệu của chính phủ. Nếu làm được điều đó nó sẽ tạo ra vô số các mô hình kinh doanh mới, các ứng dụng tạo ra giá trị mới mà không cần đến nguồn chi ngân sách. Bộ TT&TT nên dẫn đầu về việc đo đạc, kiểm tra dữ liệu về số hóa. Sau đó có những quy định, quy hoạch để các doanh nghiệp, cá nhân có thể sử dụng, khai thác nguồn dữ liệu này trong giai đoạn tới.

Chuyển sang lĩnh vực công nghiệp CNTT, hiện nay có đánh giá quy mô phát triển ngành công nghiệp CNTT còn nhỏ, năng lực hoạt động và khả năng cạnh tranh trong khu vực và thế giới chưa cao. Với VNPT, công nghiệp CNTT được coi là một lĩnh vực trụ cột.

Xin hỏi ông Đỗ Vũ Anh, Thành viên HĐTV Tập đoàn VNPT, ông đánh giá như thế nào về công nghiệp CNTT Việt Nam và thời gian tới chúng ta cần tập trung vào nhóm lĩnh vực nào để có thể thúc đẩy công nghiệp CNTT phát triển?


Ông Đỗ Vũ Anh, Thành viên Hội đồng Thành viên VNPT

Ông Đỗ Vũ Anh, Thành viên Hội đồng Thành viên VNPT

Ông Đỗ Vũ Anh: Tham dự tọa đàm, VNPT mang đến nhiều ý kiến đóng góp. Trước khi đi vào câu hỏi của Ban tổ chức, chúng tôi muốn góp ý về 3 vấn đề: Thứ nhất, tôi nghĩ rằng các Nghị định, văn bản, chính sách rất quan trọng, giúp định hướng cho các doanh nghiệp, nhất là với các doanh nghiệp nhà nước, giúp doanh nghiệp có thể nắm bắt được các cơ hội, thách thức; lên được kế hoạch để có thể sẵn sàng đáp ứng được những yêu cầu của thị trường. Thực chất, các văn bản, chính sách của Nhà nước đặt ra một con đường cho các doanh nghiệp thấy cơ hội cho đơn vị mình. Hơn thế, VNPT đang triển khai rất nhiều dự án về chính quyền điện tử, cổng thông tin hành chính một cửa… Trong quá trình thực hiện các dự án phục vụ cho các cấp chính quyền, chúng tôi thấy rằng nhiều tỉnh làm rất tốt, nhẹ nhàng nhưng nhiều tỉnh triển khai có vấn đề.

Tôi muốn nêu một số bất cập như: Cổng thông tin hành chính một cửa với 4 cấp độ, xuống đến các cấp độ phía dưới gặp nhiều khó khăn. Chẳng hạn như về quản lý đất, liên quan đến sổ đỏ và nhiều vấn đề khác… Sổ đỏ có 3 người, 1 trong 3 người đi vắng, rất khó để giải quyết. Đây là thực tế, cũng không phải là không giải quyết được nhưng không giải quyết nhanh như doanh nghiệp kỳ vọng. Vấn đề nữa liên quan đến các Luật, chúng tôi cho rằng cần có kế hoạch để đồng bộ hóa các Luật của mình khi có sự thay đổi. Chẳng hạn như cụ thể hóa tối đa theo các quy chế hướng dẫn. Ví dụ như tại Điều 48 về chính sách phát triển công nghiệp CNTT có nêu: “Nhà nước có chính sách ưu đãi, ưu tiên đầu tư phát triển công nghiệp CNTT, đặc biệt chú trọng công nghiệp phần mềm và công nghiệp nội dung để trở thành một ngành kinh tế trọng điểm trong nền kinh tế quốc dân”, nhưng tới năm 2016, Chính phủ mới ban hành Nghị quyết 41 của Chính phủ về chính sách ưu đãi thuế thúc đẩy phát triển và ứng dụng CNTT. Như vậy, là từ Luật cho đến Nghị định hướng dẫn cũng có độ trễ nhất định.

Hay như việc đồng bộ thông tin giữa các Luật, xác định trọng tâm nội dung của từng Luật. Ví dụ như Điều 74 của Luật CNTT quy định một số nội dung khuyến khích hỗ trợ người tàn tật có ghi “Nhà nước có chính sách ưu đãi về thuế, tín dụng và ưu đãi khác cho hoạt động: Nghiên cứu - phát triển các công cụ và ứng dụng nhằm nâng cao khả năng của người tàn tật trong việc truy nhập, sử dụng các nguồn thông tin và tri thức thông qua sử dụng máy tính và cơ sở hạ tầng thông tin; Sản xuất, cung cấp công nghệ, thiết bị, dịch vụ, ứng dụng CNTT và nội dung thông tin số đáp ứng nhu cầu đặc biệt của người tàn tật”. Bên cạnh đó, Luật Người khuyết tật năm 2010 cũng có quy định “Nhà nước có chính sách miễn, giảm thuế cho cơ sở sản xuất dụng cụ chỉnh hình, phương tiện, thiết bị phục hồi chức năng, trợ giúp sinh hoạt, học tập và lao động cho người khuyết tật”. Tuy nhiên, triển khai thực tế những quy định này chưa có hướng dẫn. Do đó, với những Luật ban hành ra chúng tôi cho rằng cần sớm có hướng dẫn để quy định của Luật sớm đi vào cuộc sống, đạt hiệu quả hơn.

Ông Trần Hữu Quyền, Tổng Giám đốc VNPT Tech cũng tham gia thảo luận về sự phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài.


Ông Trần Hữu Quyền, Tổng Giám đốc VNPT Tech

Ông Trần Hữu Quyền, Tổng Giám đốc VNPT Tech

Ông Trần Hữu Quyền: Tôi xin chia sẻ về sự phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước. Doanh nghiệp trong nước đang bị ngược đãi so với FDI, đặc biệt là về CNTT. Chúng tôi chưa dám xin được ưu đãi hơn và chỉ xin được bình đẳng như FDI. Còn giữa doanh nghiệp tư nhân và nhà nước: chúng tôi cũng xin doanh nghiệp nhà nước được đối xử như doanh nghiệp tư nhân. Doanh nghiệp tư nhân chỉ hoạt động theo Luật Doanh nghiệp thì với doanh nghiệp nhà nước ngoài Luật Doanh nghiệp còn có một số chế tài khác. Về công nghiệp CNTT, như anh Ngọc FPT đi làm từ trước năm 1997, mấy năm gần đây mới có doanh thu cân bằng được với các lĩnh vực khác của FPT. Qua đó cho thấy làm công nghiệp rất vất vả, làm công nghiệp phần cứng còn vất vả hơn nữa vì gồm cả thiết bị, firmware.

Về nhận thức xã hội, trong sự kiện hôm nay có nhiều anh chị trong giới truyền thông xin định hướng giúp “như thế nào là một sản phẩm có đóng góp trong nước”. Sản phẩm của ai thì đó là ý tưởng của người đó, là sản phẩm được người đó phát triển ra... Nhưng điều đó thì truyền thông phải định hướng được không thể nhìn sản phẩm đó lấy linh kiện của ai. Như hiện nay, trong nước mình công nghệ bán dẫn chưa có mà đòi hỏi phải dùng công nghệ bán dẫn của Việt Nam thì ở đâu ra. Nếu các anh chị trong giới truyền thông có thể định hướng được dư luận, nâng cao nhận thức của xã hội về việc như thế nào là sản phẩm Việt Nam thì cũng bớt tủi cho những đơn vị như Bkav, VNPT. Dù chúng tôi làm ra các sản phẩm nhỏ thôi nhưng rất tủi hổ khi bị người này người khác nói có phải từ nơi khác đưa sang không. Nếu bị vùi dập thì nền công nghiệp nói chung, công nghiệp CNTT Việt Nam sẽ chết yểu sớm.

Ông Bùi Quang Ngọc, Tổng Giám đốc FPT tiếp tục chia sẻ: Trong lĩnh phần mềm dịch vụ FPT tham gia nhiều, doanh thu từ phần mềm của FPT vượt tất cả tất cả lĩnh vực kinh doanh khác, phần mềm dịch vụ là ngành cần nguồn nhân lực cao, nhưng chính sách đào tạo nhân lực cho ngành đang có vấn đề. Chương trình đào tạo trong các trường thiếu công nghệ mới và thiếu kỹ năng làm việc công nghiệp, quản trị dự án. Mỗi năm FPT thiếu 3.000 - 4.000 nhân viên mới, nhưng Đại học Bách khoa chỉ cho ra trường khoảng 300 - 400 người do Bộ Giáo dục & Đào tạo chỉ cho đào tạo như vậy. Do đó, Bộ Giáo dục & Đào tạo cần bỏ khái niệm Quota đi, để cho các trường đào tạo theo nhu cầu thị trường. Về đề nghị cho phép hoán đổi Bằng 2 cho những người có bằng tốt nghiệp đại học ngành khác nhưng đi học về CNTT, Bộ Giáo dục & Đào tạo nghe cũng gật gù nhưng chưa có động thái gì. Nguồn nhân lực cho công nghiệp phần mềm cực kỳ thiếu, cho Internet of Things càng thiếu nhiều hơn vì cơ sở của IoT là trí tuệ nhân tạo đòi hỏi những người giỏi toán, có trình độ trí tuệ cao để tham gia làm. Để ngành dịch vụ phần mềm phát triển cần có chính sách tối đa hóa tất cả giao dịch điện tử, ở đâu có điện tử được bỏ hết giấy tờ đi, hạ tầng thanh toán đã có cần bỏ bớt tiền mặt đi. Nhà nước phải thể chế hóa để bắt buộc các đơn vị phải ứng dụng CNTT, thậm chí cần có luật bắt buộc cho cả lĩnh vực tư nhân, quy định các bệnh viện phải dùng chung nhau hồ sơ điện tử khi đó bắt buộc các bệnh viện phải liên thông nhau.

Khi giao dự án CNTT nên chăng cần tìm cách ưu tiên cho Việt Nam, khuyến khích các nhà thầu Việt Nam tham gia các dự án của nhà nước. Hàn Quốc trong một thời gian dài các nhà thầu nước ngoài không vào được và Hàn Quốc đã trở thành một cường quốc về CNTT. Tôi cũng kiến nghị nhà nước có biện pháp hạn chế sự trợ giá không lành mạnh, một số doanh nghiệp có hiện tượng trợ giá không lành mạnh, ví dụ cung cấp đường truyền trong một dự án, hoặc có những lời chào mời Bộ X làm với tôi sẽ được tài trợ cho vài nghìn tỷ lấy từ ngành kinh doanh khác bù vào. Lĩnh vực hạn chế cạnh tranh không lành mạnh ở ta chưa được nghiên cứu đầy đủ. Ở Mỹ, châu Âu các doanh nghiệp như Google hay Faceboook bị sờ gáy liên tục, nếu sai bị đè ra phạt ngay hàng mấy trăm triệu USD. Còn ở Việt Nam người đi đầu trong các tài trợ không lành mạnh chính là doanh nghiệp nhà nước.

Ông Nguyễn Trung Chính, Chủ tịch CMC bổ sung thêm ý kiến của ông Bùi Quang Ngọc: “Tôi đề nghị cấm luôn hành vi trợ giá không lành mạnh, không phải là hạn chế”. Luật Cạnh tranh đã có quy định rõ về hành vi cạnh tranh không lành mạnh sẽ bị nghiêm cấm, do đó trong lĩnh vực CNTT những gì vi phạm luật phải cấm. CMC nhiều lần kiến nghị Bộ TT&TT về giá thành dịch vụ cáp quang, có doanh nghiệp liên tục bán dưới giá thành đã đề nghị Bộ phải cấm. Mặc dù có thể họ lách dưới nhiều hình thức, câu chuyện bù chéo hay không tôi không quan tâm nhưng nếu một doanh nghiệp bán dưới giá thành nhà nước phải cấm. Trong khi, với nhiều dịch vụ mà doanh nghiệp nhà nước độc quyền thì lại đang đề nghị tăng giá, ví dụ vấn đề chia sẻ lại hạ tầng đang bị tình trạng mỗi địa phương xử một kiểu. Hà Nội một kiểu, Đà Nẵng một kiểu, TP.HCM một kiểu, Hà Nội hiện là nơi có giá dễ chịu nhất. Do đó nhà nước cần quản lý giá dịch vụ CNTT, phối hợp với Bộ Công Thương để ngăn chặn cạnh tranh không lành mạnh, hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ, mới ra thị trường. Nếu không những doanh nghiệp còn non nớt vừa ra thị trường đã bị các ông lớn đánh bại, làm sao phát triển được.


Ông Lưu Hoàng Long: Chủ tịch Hiệp hội doanh nghiệp điện tử Việt Nam

Ông Lưu Hoàng Long: Chủ tịch Hiệp hội doanh nghiệp điện tử Việt Nam

Theo ông Lưu Hoàng Long, Chủ tịch Hiệp hội doanh nghiệp điện tử Việt Nam, trong lĩnh vực sản xuất thiết bị (phần cứng) các doanh nghiệp điện tử sản xuất là chính. Chúng tôi hoàn toàn có trình độ công nghệ để có thể sản xuất thiết bị. Vấn đề chỉ là thị trường. Nếu các anh ưu tiên sản xuất thiết bị điện tử, CNTT gì thì cũng phải ra bằng chính sách từ đó, khuyến khích tiêu thụ và bảo vệ thị trường tiêu thụ đó. Thế nhưng hiện tại, đa phần lại không có thị trường tiêu thụ cho các thiết bị điện tử, CNTT. Về vấn đề thuế, hôm nay tôi tham gia một hội nghị trong đó có nội dung liên quan đến Nghị định 134 của Chính phủ trước kia chúng ta miễn thuế cho các sản phẩm gia công trong nước và xuất khẩu, nhưng gần đây chúng ta chỉ miễn thuế cho các doanh nghiệp xuất khẩu trực tiếp, còn doanh nghiệp xuất khẩu gián tiếp thì không được ưu đãi. Do đó, các doanh nghiệp sản xuất phụ trợ lại hoàn toàn không được miễn thuế. Như vậy là chúng ta khuyến khích nhập khẩu linh kiện chứ không phải khuyến khích sản xuất trong nước.

Còn một vấn đề nữa trong quản lý nhà nước nên chăng cần quan tâm, chú trọng hơn và có các chính sách cho lĩnh vực sản xuất điện tử bởi hiện tại có rất ít các văn bản quản lý Nhà nước về lĩnh vực này dù đây là lĩnh vực quan trọng và mang lại nguồn thu khá lớn. Theo thống kê, kim ngạch xuất khẩu về lĩnh vực điện tử tính cả FDI năm 2017 có thể lên đến trên 50 tỷ USD. Đóng góp GDP không hề nhỏ. Ngoài kim ngạch xuất khẩu lớn thì lĩnh vực sản xuất điện tử cũng thu hút khoảng 60.000 lao động, nhiều nhất trong các ngành sản xuất công nghiệp hiện nay.


Ông Nguyễn Thế Tân, Tổng Giám đốc VCCorp

Ông Nguyễn Thế Tân, Tổng Giám đốc VCCorp

Trao đổi về bất cập trong lĩnh vực nội dung số tại Việt Nam, ông Nguyễn Thế Tân, Tổng Giám đốc VCCorp cho rằng: tổng doanh thu của các công ty vào khoảng 8.000 - 10.000 tỷ đồng mỗi năm tại thị trường Việt Nam. Nếu tính công ty “giả” Việt Nam (như công ty Trung Quốc vào Việt Nam làm) thì lên đến 15.000 - 20.000 tỷ đồng mỗi năm. Trong đó có nguồn thu đến từ quảng cáo và game, phim đang lên. Ngành nội dung số có đặc điểm quan trọng là cạnh tranh với công ty xuyên biên giới nhiều. Như Facebook họ có ứng dụng từ Mỹ, được phân phối tại Việt Nam. Như vậy là đánh nhau ngay trên sân nhà, doanh nghiệp Việt Nam đang mất dần sân nhà. Thua đến mức chết thì chưa phải, mà vẫn gượng được. Nhưng nếu tiếp tục diễn biến như hiện nay thì mất hết.

Thua trên sân nhà cơ bản nguồn gốc từ đâu? Chúng tôi gọi đó là cơ chế bảo hộ ngược. Thay vì hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam thì doanh nghiệp Việt Nam lại khó khăn hơn, dù tất nhiên đó không phải là ý muốn của nhà quản lý. Ví dụ về cấp phép. Nếu bình thường doanh nghiệp Việt Nam phải làm theo quy định, sai thì phạt, rồi thanh kiểm tra. Đó là những việc phải làm. Nhưng ngược lại, doanh nghiệp nước ngoài lại không cần như vậy. Như Facebook không phải kiểm duyệt, giải trình khi có nội dung phản động… Ngành nội dung số là ngành cấp phép. Nếu cấp phép làm con cá thì chỉ được phép làm con cá. Nếu làm trang tin điện tử thì không làm mạng xã hội. Đã làm nhạc trực tuyến thì không được làm thông tin tổng hợp. Nhưng trong ngành Internet thì có ứng dụng như Facebook không biết gọi là gì khi vừa là mạng xã hội, vừa đọc báo hay livestream… Còn doanh nghiệp Việt Nam nếu làm sai giấy phép thì phạt vài chục triệu, nếu sai 3 lần thì đóng cửa. Không doanh nghiệp nào dám bỏ ra 10 triệu USD đầu tư vào cái không có giấy phép. Như VCCorp, ném ra 100 tỷ để làm thì ngày mai không biết có tương lai hay không, hay lại thành vi phạm quy định đi tù. Dù đó không phải là ý định của nhà quản lý mà lại là bảo hộ ngược, trói tay doanh nghiệp.

Bảo hộ ngược thứ hai là liên quan đến thuế. Daonh nghiệp Việt Nam đóng tất cả các loại thuế. Trong khi doanh nghiệp xuyên biên giới lại không: không thuế thu nhập cá nhân VAT, không thuế thu nhập doanh nghiệp, không bảo hiểm… Việc phải đóng nhiều loại thuế khiến chúng tôi khi bán một mặt hàng lại bị đội giá lên vài chục %. Những bất lợi đó càng ngày càng khiến doanh nghiệp Việt Nam teo tóp. Đó là những vấn đề thực tế doanh nghiệp Việt Nam đang gặp phải. Hiện thị trường Việt Nam có quy mô khoảng 1 tỷ USD. Đó là dịch vụ xuyên biên giới doanh nghiệp nước ngoài cung cấp tại Việt Nam, còn doanh nghiệp Việt Nam nếu có dịch vụ tốt thì cung cấp ra nước ngoài như Flappy Bird của Nguyễn Hà Đông. Hay doanh nghiệp nhỏ lẻ có doanh thu vài trăm tỷ đồng mỗi năm nhưng họ phải ẩn mình đi. Tại sao họ phải trốn? Bởi với tình trạng pháp luật hiện nay thì ẩn mình đi cho đỡ rắc rối. Tiền chuyển về tài khoản nước ngoài dù sống ở Việt Nam, người Việt Nam bán ra nước ngoài. Quy mô của thị trường này trong khoảng 5 năm đạt 1 tỷ USD, trong 20 năm là 5 tỷ USD thì 1 tỷ USD và 5 tỷ USD này ý nghĩa thế nào? Như ngành dệt may, nếu xuất khẩu 5 tỷ USD thì Việt Nam thu về 10%, khoảng 500 triệu USD. Còn 1 tỷ USD xuất khẩu nội dung số ra nước ngoài thì thu về khoảng 700 triệu USD, trừ ra các chi phí thì khoảng 500 triệu USD. Như vậy, xuất khẩu 1 tỷ USD của nội dung số thì giá trị mang về cho Việt Nam tương xứng với 5 tỷ USD của dệt may. Cho nên tôi mạnh dạn dự báo trong 5-10 năm tới, nếu ngành nội dung số phát triển thì chỉ đứng sau du lịch, còn lại vượt qua dệt may, xăng dầu… về giá trị kinh tế mang lại cho Việt Nam. Cùng đó ước chừng có 1 triệu lao động.

Ngành này phát triển từ chính doanh nghiệp trên sân nhà của Việt Nam. Còn nếu họ bị lấn sân thì sẽ không còn hy vọng. Tất cả các công ty nội dung số Việt Nam hầu hết đi lên từ tay không, dùng nguồn lực duy nhất là con người. Tuyển dụng về CNTT, nội dung, người thiết kế… rồi kinh doanh. Vốn chưa bao giờ xin của Nhà nước hoặc tự làm hoặc gọi đầu tư từ nước ngoài. Nhiều anh em nội dung số phát biểu nhiều lần không hy vọng được ưu đãi, chỉ mong gỡ các bảo hộ ngược. Theo nguyên tắc cái gì không thu của doanh nghiệp nước ngoài thì đừng thu của Việt Nam. Bộ TT&TT nên đề xuất với nhà nước gọi ngành nội dung số là ngành kinh tế trọng điểm, khi có tư tưởng như vậy thì sẽ biết được là làm ưu đãi gì. Điều đáng buồn là quá ít người hiểu ngành nội dung số là gì, các chính sách ưu đãi thì như đứa con bị bỏ rơi. Nếu xin chứng chỉ công nghệ cao thì xin Bộ KH&CN. Còn xin chứng chỉ tôi là doanh nghiệp nội dung số có lợi cho quốc gia cần ưu đãi thì không biết gặp ai. Theo tôi, Bộ TT&TT nên đứng ra làm, coi là ngành trọng điểm và phát triển. Ngành nội dung số, ưu đãi cần tập trung vào đâu? Tiền không cần vì doanh nghiệp tự kiếm từ thị trường. Đó là ưu đãi về con người, là nhân lực CNTT. Như VCCorp có 1.700 người thì 60-70% còn lại là làm nội dung, sản phẩm, thiết kế, quảng cáo... Cần có ưu đãi cho họ.


Ông Nguyễn Thanh Hưng, Giám đốc VTC Intecom

Ông Nguyễn Thanh Hưng, Giám đốc VTC Intecom

Ông Nguyễn Thanh Hưng, Giám đốc VTC Intecom: Luật CNTT có nhiều quy định vĩ mô quá trong khi doanh nghiệp cần những điều thiết thực hơn. Quy mô của ngành nội dung số ngày càng lớn, cách đây 10 năm doanh thu của nội dung số từ dịch vụ giá trị gia tăng đã đạt 3.000 - 4.000 tỷ đồng, đến nay quy mô ngày càng lớn, từ truyền hình, các dịch vụ trên online, sự dịch chuyển sang ngành quảng cáo trực tuyến, các nội dung trên mạng xã hội… Về mặt chính sách, đang có một số hạn chế sự phát triển của ngành nội dung số trong nước, nhà nước có quy định quản lý nội dung số trong nước rất chặt. Việt Nam không phát triển được mạng xã hội trong nước vì bị quản lý nội dung thông tin rất chặt chẽ, trong khi những nội dung ấy nếu được đưa lên Facebook thì không bị ai hỏi đến. Ngành game online nhà nước quy định Game G1 phải phê duyệt nội dung kịch bản, với các thủ tục hành chính giấy tờ rất nhiều, tuy nhiên khi gửi hồ sơ xin phép thì các anh phê duyệt không chơi game nên làm sao đọc được. Đối với game mobile trên Store một ngày ra bao nhiêu game mới không sao kiểm soát được. Trong khi chỉ có doanh nghiệp Việt Nam bị quản lý chặt, dễ bị sờ gáy không sao phát triển được.

Một hạn chế khác, ngành nội dung số đang chuyển dịch mạnh từ PC sang mobile, nhưng chính sách quản lý vẫn chưa phù hợp, quy định chỉ xoay quanh các quy định mà chỉ áp dụng cho thị trường Việt Nam. Nội dung số trên mobile đang bị cảnh “một cổ hai tròng”, một là phải tuân thủ theo quy định của pháp luật Việt Nam, hai là phải tuân theo các quy định của các nhà cung cấp nền tảng, do đó doanh nghiệp phải tìm cách đáp ứng các yêu cầu của các Store để có thể đưa game lên được. Nhưng hiện tại các doanh nghiệp Việt gặp khó khăn khi thanh toán làm mất khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt. Chính vì có nhiều hạn chế về chính sách nên các doanh nghiệp nội dung số Việt không còn mặn mà đầu tư vào công nghệ nội dung số, muốn phát triển ngành này phải đầu tư tương đối dài hạn, một nền tảng tốt cần được đầu tư từ 3 - 5 năm nên ngành nội dung số Việt đang mất dần niềm tin chỉ còn xu hướng khai thác dịch vụ ngắn hạn, không đầu tư dài hạn.

Luật CNTT có quy định ưu đãi cho sản phẩm công nghệ trọng điểm, doanh nghiệp nội dung số cung cấp nhiều dịch vụ cho hàng triệu người dùng như VTC có studio sản xuất game cung cấp cho thị trường Mỹ, châu Âu nhưng thực tế chưa có chính sách khuyến khích cho những hoạt động đó. Tôi cũng đưa ra một số đề xuất với Bộ TT&TT trong quá trình xây dựng chính sách cần có chỉ số cụ thể, đừng đưa luật chung chung, yêu cầu ngành thuế ưu đãi nhưng chả ai triển khai, chả ai ưu đãi, do đó luật phải rất cụ thể.

Bộ TT&TT cần nghiên cứu chính sách yêu cầu các doanh nghiệp nước ngoài khi vào Việt Nam phải tuân thủ pháp luật Việt Nam. Kinh tế số là nền kinh tế không có biên giới, cần có chế tài đối với các doanh nghiệp toàn cầu như Google, Facebook khi họ có doanh thu hàng nghìn tỷ đồng từ thị trường Việt Nam nhưng không đóng thuế. Trong việc hợp tác giữa doanh nghiệp Việt với doanh nghiệp cung cấp nền tảng Bộ không trao đổi giúp với doanh nghiệp nước ngoài là một thiếu sót, thiệt thòi cho doanh nghiệp Việt. Đề nghị Bộ đơn giản hóa thủ tục hành chính, đúng với mục tiêu chính phủ kiến tạo, cụ thể giảm bớt cấp phép trong các lĩnh vực do Bộ quản lý, giảm bớt thủ tục cấp phép game. Như kinh nghiệm Trung Quốc chẳng hạn, Trung Quốc có biện pháp kỹ thuật có chế tài để doanh nghiệp nước ngoài không vào được Trung Quốc, do vậy chúng ta cũng có biện pháp chặt hơn với các doanh nghiệp Trung Quốc, đó chính là vấn đề an ninh quốc gia.


Ông Nhan Thế Luân, đại diện Nhaccuatui

Ông Nhan Thế Luân, đại diện Nhaccuatui

Vẫn liên quan đến việc quản lý Nội dung số, đặc biệt là vấn đề bình đẳng giữa các doanh nghiệp xuyên biên giới, ông Nhan Thế Luân, đại diện Nhaccuatui nhận định rằng: các công ty lớn nhất trên thế giới hiện nay như Google, Faceboo, Amazon… đều là các công ty phát triển dịch vụ trên nền tảng Internet. Các công ty phát triển mạnh bởi ngành này đặc thù không giới hạn về vị trí địa lý, không gian, công nghệ nên có thể phát triển nhanh. Khi bước ra thế giới, chúng ta có thể tiếp cận 4 tỷ dân toàn thế giới. Đó là lý do tại sao các công ty Internet lại lớn như thế. Ở Việt Nam, chúng ta hoàn toàn có khả năng phát triển mạnh hơn hiện nay. Như anh Nguyễn Thế Tân nói, các công ty nhỏ như chúng tôi đang gặp một vấn đề đó là phải cạnh tranh với các công ty nước ngoài lớn vừa bị “trói buộc lại trong góc tường”. Chúng ta có thể hình dung, trong số 300 website được cấp phép hiện nay thì tổng traffic chỉ chiếm khoảng trên 20% so với các ông lớn nước ngoài như Google, YouTube, Facebook dù họ không có giấy phép tại thị trường Việt Nam.

Một số kinh nghiệm đã chia sẻ lại là một số công ty có xin giấy phép làm mạng xã hội nhưng chưa kịp làm đã chết trước khi Facebook lớn mạnh như ngày hôm nay. Nguyên nhân là khi quá tuân thủ pháp luật thì vô hình chung, các công ty nước ngoài có điều kiện thuận lợi hơn để phát triển. Những quy định quá chặt của chúng ta càng ngày càng khiến cho các công ty Việt Nam bị teo tóp đi. Do đó, mong muốn các cơ quan quản lý Nhà nước có thể tạo sự công bằng. Nhà nước đưa ra chính sách công bằng với các công ty nước ngoài. Nghĩa là các công ty nước ngoài cũng cần phải có giấy phép hoặc chế tài mạnh mẽ nào đó để các giấy phép có và thực sự hiệu quả giữa hai bên. Một cách công bằng hơn, chúng ta thường nói rằng tại sao không ủng hộ hàng Việt? Thì từ trong bản thân mỗi chúng ta lợi ích cá nhân rất nhiều nên các công ty Việt Nam “tàn sát” lẫn nhau, dẫn đến hậu quả này. Chúng ta góp phần đẩy thị trường cho nước ngoài nhiều và các doanh nghiệp trong nước chưa bảo vệ lẫn nhau.

Về ưu đãi, nhất là thuế, thật ra Việt Nam có cơ hội lớn trong hút vốn đầu tư. Nhưng để công ty Việt Nam nhận vài chục triệu USD là rất hiếm. Trong khi đó, các công ty ở các quốc gia khác như Singapore, Indonesia có thể nhận đươc hàng tỷ USD tiền đầu tư. Nguyên nhân là chính sách của các nước được hỗ trợ rất nhiều cho các doanh nghiệp. Đặc biệt là chính sách thuế. Do đó, đề xuất của tôi là nếu coi đây là ngành kinh tế trọng điểm thì hoàn toàn có thể sử dụng các chính sách về thuế để chẳng những giữ được các nguồn thu trong nước mà còn hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.


Ông Nguyễn Xuân Cường, Phó Chủ tịch Hội Truyền thông số

Ông Nguyễn Xuân Cường, Phó Chủ tịch Hội Truyền thông số

Theo ông Nguyễn Xuân Cường, Phó Chủ tịch Hội Truyền thông số, ở khâu hành động trong mục tiêu (Kiến tạo - Hành động - Liêm chính) có khá nhiều vấn đề. Luật CNTT có quy định chung, có điều lại khá chi tiết, quy định của pháp luật khi triển khai quả thực khiến doanh nghiệp lúng túng, làm quá trình hành động chậm. Luật CNTT nói về các dịch vụ CNTT liên quan đến lĩnh vực y tế, giáo dục, nông nghiệp... các Bộ chủ quản ngành này phải có văn bản hướng dẫn, nhưng thực tế chưa có văn bản hướng dẫn được ban hành. Cụ thể khi triển khai nông nghiệp thông minh, một doanh nghiệp nhỏ của Hội muốn làm và ký một hợp đồng với một đơn vị làm nông nghiệp thông minh, triển khai dịch vụ bay flycam để phun thuốc. Khi ký kết hợp đồng, nếu chiểu theo văn bản quy định không thấy có gì vướng mắc, nhưng khi thực hiện tự nhiên xuất hiện một văn bản của Bộ Quốc phòng yêu cầu phải xin phép khi bay flycam, doanh nghiệp đó làm rất nhiều thủ tục hành chính giấy tờ, từ xin phép giấy nhập khẩu thiết bị đến giấy phép bay, bay ở khu vực nào cánh đồng nào cũng phải xin phép, đây là một tình huống không liên quan trong quy định của Luật nhưng bỗng dưng xuất hiện.

Các doanh nghiệp truyền thông và nội dung số đang mong muốn được bình đẳng, bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp trong nước, bình đẳng giữa các doanh nghiệp nhỏ - vừa - lớn, giữa doanh nghiệp tư nhân với nhà nước, giữa doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp nước ngoài, doanh nghiệp xuyên biên giới, FDI. Luật khi sinh ra phải làm được điều đấy, không phải luật sinh ra bảo hộ ngược cho các doanh nghiệp nước ngoài do đó cần hiệu chỉnh lại, có những quy định với doanh nghiệp trong nước phải đi theo hướng không cấp phép mà chuyển sang hậu kiểm, giảm bớt các thủ tục hành chính. Cụ thể, nội dung số hầu hết là doanh nghiệp khởi nghiệp chủ yếu dựa vào nguồn lực và nội lực của mình là chính nhưng các doanh nghiệp khởi nghiệp hiện bị đối xử bất bình đẳng ngay trong nước.

Ví dụ, doanh nghiệp CP bị bất bình đẳng với các nhà mạng, bản thân các nhà mạng thay vì làm hạ tầng làm nền tảng của các nền kinh tế khác, bản thân doanh nghiệp tập trung chưa cao, xã hội chưa thực sự được hưởng từ các dịch vụ do các doanh nghiệp này cung cấp. Nhưng các nhà mạng cũng nuôi dưỡng các doanh nghiệp nội dung số, chúng tôi đã có số liệu chứng minh có hiện tượng bù chéo thông qua báo cáo tài chính của các doanh nghiệp này, bù chéo bằng biện pháp kỹ thuật thông qua hệ thống billing tạo ra cạnh tranh không lành mạnh. Từ đó chính sách của nhà mạng với doanh nghiệp nội dung số không ổn định, họ tự do điều chỉnh theo hệ thống như bốc thuốc. Ví dụ có ngày hệ thống billing bị trục trặc, họ tự lấy số liệu nào đó bù vào, doanh nghiệp nội dung bị thiệt phải chịu. Doanh nghiệp nội dung số trực thuộc nhà mạng tạo ra bức tranh méo mó cho ngành nội dung số, sự phân chia giữa các doanh nghiệp nội dung và nhà mạng biến động không ngừng, nhà mạng thích thế nào chia như thế, ban đầu chia 60% cho CP, sau giảm 50%, 40%, thậm chí có 30%, chính sách của nhà mạng không ổn định khiến các doanh nghiệp nội dung không muốn đầu tư dài hạn, ngành nội dung số có nguy cơ teo tóp.

Cách mạng 4.0, IoT phải phát triển mạnh thanh toán không dùng tiền mặt, nhưng hiện nay tỷ lệ thanh toán qua thẻ cào rất lớn, trong khi các nước tỷ lệ dùng thẻ cào rất ít. Trung Quốc trước đây cũng dùng thẻ cào nhưng giờ nếu không dùng ví điện tử sẽ không không thanh toán được. Đề nghị Bộ TT&TT phải chỉ đạo các doanh nghiệp viễn thông điều chỉnh lại, nếu Bộ không tác động thì tỷ lệ thẻ cào rất lớn, thẻ cào vẫn là tiền mặt. Việc này cần làm được ngay làm giảm chi phí thanh toán kết nối, nâng cao sự cạnh tranh. Sự bất bình đẳng giữa doanh nghiệp nội dung số, truyền thông trong nước với nước ngoài, cơ chế đối thoại với tư bản chưa được hiệu quả, chúng ta đang tương tác với doanh nghiệp toàn cầu với đại diện của họ ở Đông Nam Á, chưa có cơ chế trực tiếp với đầu não. Doanh nghiệp nước ngoài muốn có thị trường có doanh thu ổn định, thời gian tới Hội Truyền thông số sẽ có tương tác trực tiếp với đầu não của các doanh nghiệp nước ngoài, Việt Nam là thị trường lớn nên việc tương tác trực tiếp với các doanh nghiệp toàn cầu là cần thiết.

Ông Bùi Quang Ngọc, Tổng giám đốc FPT cho biết: Liên quan đến lĩnh vực nội dung số, doanh nghiệp trong nước đưa ra các kiến nghị cần được bình đẳng, nhà nước cần hoạch định ra các chiến lược cho từng lĩnh vực trong ngành CNTT- viễn thông nói chung là cần thiết. Ý kiến về việc các công ty viễn thông lớn của Việt Nam đang nuôi các doanh nghiệp nội dung số của họ, theo tôi Bộ TT&TT cần ghi nhận và có chính sách quản lý thế nào cho phù hợp đảm bảo cạnh tranh lành mạnh cho ngành nội dung số phát triển. Đối với ý kiến của các doanh nghiệp nội dung số trong nước về việc chính sách đang bảo hộ ngược cho các doanh nghiệp nước ngoài, rồi doanh nghiệp trong nước bị ngược đãi so với với doanh nghiệp nước ngoài tôi nghe không được thuận tai lắm. Chính xác ra các anh phải nói là doanh nghiệp trong nước không được ưu đãi bằng doanh nghiệp nước ngoài.

Tôi nói ví dụ, cách đây hơn chục năm khi Intel muốn đặt nhà máy ở Việt Nam cả hệ thống chính trị của Việt Nam khi ấy phải vào cuộc để Intel có thể đầu tư được. Samsung cũng vậy, họ đầu tư mấy chục tỷ USD, nếu không ưu đãi, không khuyến khích, họ bỏ đi sang các nước lân cận ngay. Ngành nội dung số cũng vậy, doanh nghiệp trong nước yêu cầu doanh nghiệp nước ngoài phải xin giấy phép, nếu nhà nước yêu cầu họ xin phép, họ thuê tư vấn chỉ 1 tuần họ có giấy phép. Khi họ có giấy phép rồi các bạn có chiến đấu lại được không, chắc chắn họ vẫn là người khổng lồ, cuộc chiến nào cũng thế thôi. Chúng ta không nên so sánh với Trung Quốc vì họ là cường quốc. Nếu chúng ta học tập Malaysia hay Thái Lan xem họ làm thế nào hãy học tập, không nên học Trung Quốc. Trung Quốc họ chặn được Facebook, Google vì có mạng xã hội riêng còn ta không có mạng xã hội để thay thế. Không có Facebook, Google chúng ta “chết ngay”. Câu chuyện chiến đấu với người khổng lồ xuyên biên giới không phải câu chuyện về quản lý mà là cuộc chiến về công nghệ, con người và nền tảng, Việt Nam sẽ luôn là người thua thiệt vì chúng ta quá nhỏ. Tôi cũng không đồng tình kiến nghị bỏ giấy phép game, game vẫn cần phải được cấp phép và quản lý nội dung song có thể kiến nghị bỏ bớt một số thủ tục hành chính.

Kết luận buổi Tọa đàm, Thứ trưởng Nguyễn Thành Hưng cho biết, mục tiêu khi tổng kết việc thi hành Luật CNTT cũng là dịp để xác định những rào cản, vấn đề mà Nhà nước, Quốc hội cần thấy mà nếu không giải quyết được thì không thể đưa CNTT lên một tầm mới như mong đợi là làm ngành hạ tầng của hạ tầng, không thể giúp cho Chính phủ của chúng ta trở thành một chính phủ kiến tạo. Những nội dung quan trọng trong tổng kết Luật CNTT hiện nay cần được quan tâm là sự chồng chéo trong Luật, trong vấn đề quản lý Nhà nước thể hiện ở những vấn đề cụ thể. Chúng ta mong muốn sự thông thoáng trong đầu tư, nhưng thực chất mà nói vấn đề này lại bị điều tiết bởi pháp luật khác. Sự chồng chéo còn thể hiện trong vấn đề cạnh tranh. Có thể nói, tất cả các vấn đề về cạnh tranh đều đã được quy định trong Luật Cạnh tranh, thế nhưng rất khó điều tiết các vấn đề cạnh tranh bởi Luật Cạnh tranh áp theo chiều ngang và có thể được áp dụng cho các ngành. Nhưng lại không có các vấn đề quy định cụ thể. Các điều khoản đó không thể điều tiết một số trường hợp cụ thể và đặc trưng trong lĩnh vực viễn thông hay CNTT.


Ông Nguyễn Long, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội Tin học Việt Nam (VAIP).

Ông Nguyễn Long, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội Tin học Việt Nam (VAIP).

Ông Nguyễn Long, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội Tin học Việt Nam (VAIP) phát biểu: Ở góc độ các Hội, Hiệp hội chúng ta cũng nhận thấy rằng 10 năm công nghệ thay đổi rất nhiều. Chúng tôi nhớ rằng cách đây hơn 10 năm, vào năm 2005, Luật Giao dịch điện tử ra đời. Tiếp đó, năm 2006, Luật CNTT được ban hành. Lúc đó, giới CNTT nước nhà còn đang tranh luận về doanh số ngành phần mềm là 500 triệu USD hay 1 tỷ USD. Còn hiện nay, mảng nội dung số có doanh số đạt 1 tỷ USD; doanh thu của các ngành viễn thông, phần mềm, điện tử… cũng rất lớn. Đó là thành công của Luật CNTT. Theo đánh giá của chúng tôi, Luật rất ổn nhưng vấn đề là chúng ta có thực hiện được không. Tôi muốn đề cập một số điểm đã được quy định trong Luật nhưng đến nay vẫn thấy khó thực hiện. Đơn cử như việc CNTT có phải là ngành kinh tế trọng điểm hay không? Hay vẫn chỉ được coi là ngành phụ? Các doanh nghiệp viễn thông, CNTT đã đóng góp rất lớn trong thời gian qua. Tuy nhiên, thực tế hiện nay việc ghi mục lục chi cho CNTT trong Mục lục Ngân sách, qua nhiều lần họp vẫn chưa chốt được tỷ lệ % được Bộ Tài chính thống nhất ghi.

Hay như việc đầu tư triển khai hệ thống CNTT theo Nghị quyết 36a của Chính phủ, các đại biểu cũng đã ý kiến, kinh phí rất khó khăn. Chính vì vậy, chúng tôi kỳ vọng Bộ TT&TT làm tổng kết 10 năm thi hành Luật CNTT nghiêm túc để đưa ra đề xuất, kiến nghị với cấp trên là ngành CNTT thời gian qua đã rất nỗ lực, là ngành kinh tế trọng điểm, đã và sẽ đóng góp nhiều cho nền kinh tế đất nước; thế nhưng tại sao ngành chúng ta vẫn bị coi là thứ yếu, là ngành phụ, vẫn phải đi “xin”. Về nguồn lực CNTT, rõ ràng chúng ta đang có tình trạng chảy máu chất xám, nhiều cháu giỏi đi làm cho Tây với mức thu nhập cao. Các doanh nghiệp như FPT, VCCorp và các doanh nghiệp lớn khác của Việt Nam rất khó, thậm chí là không tuyển được các nhân tài trong ngành. Theo ý kiến của Hội Tin học, chúng ta nên tổng kết một số cái được, cái chưa được sau 10 năm thi hành Luật CNTT. Quan trọng nhất, điều chúng tôi mong muốn bày tỏ ra là: ngành CNTT của chúng ta đóng góp rất cao. Ngay như xây dựng Chính phủ điện tử giúp hiệu quả, minh bạch, giảm chi phí, công sức cho người dân nhưng hiện vẫn có tình trạng cơ quan quản lý về tài chính lo tiêu phí nên không cấp kinh phí. Bên cạnh đó, dù đóng góp nhiều nhưng bản thân ngành CNTT hơi tự ti. Tôi nghĩ rằng chúng ta cần bày tỏ rõ ràng giá trị, hiệu quả của ngành mình đóng góp cho xã hội. Ví dụ như, về giá trị gia tăng của nội dung số lên tới 50%. Tôi muốn nhấn mạnh, nội dung quan trọng khi thực hiện tổng kết 10 năm thi hành Luật CNTT chính là chúng ta phải nói vị trí, vai trò của ngành mình.

Liên quan đến chức năng quản lý Nhà nước trong lĩnh vực điện tử, Thứ trưởng Nguyễn Thành Hưng cho rằng, đây còn là vấn đề lúng túng giữa Bộ Công Thương và Bộ TT&TT. Sắp tới, Bộ TT&TT sẽ có những đề xuất cụ thể về quản lý nhà nước trong lĩnh vực điện tử bởi hiện nay còn sự chồng chéo, giao thoa giữa hai Bộ. Nhà nước phải tiếp tục rà soát cơ chế chính sách để tránh chồng chéo, một lĩnh vực phải chịu nhiều sự quản lý. Đây cũng là chủ trương của Nhà nước. Bộ TT&TT cũng đang có đề xuất với Chính phủ là giảm mức độ đóng góp quỹ Viễn thông công ích. Ngoài ra, đề xuất nên quy định vấn đề quy chuẩn trong giao dịch điện tử, các giao dịch nào cần điện tử hóa. Phải có tác động để các giao dịch điện tử gia tăng lên. Có như vậy chúng ta mới xây dựng được Chính phủ điện tử, một xã hội kết nối. Đây cũng là vấn đề được Bộ TT&TT hết sức quan tâm.

Vấn đề là làm thế nào để dịch vụ viễn thông - CNTT phải dễ dàng tiếp cận với mức chi phí thấp. Mục tiêu của Nhà nước khi quản lý các doanh nghiệp viễn thông là mức độ phục vụ của các doanh nghiệp đối với xã hội như thế nào. Tất nhiên, đối với các doanh nghiệp, tăng trưởng về doanh thu, lợi nhuận là cần thiết. Nhưng vai trò phục vụ xã hội để thể hiện viễn thông, CNTT là nền tảng hạ tầng là rất quan trọng. Đây cũng là điều chúng ta phải tiếp tục cố gắng. Mặc dù, hiện nay, giá phí dịch vụ viễn thông của Việt Nam đã rất rẻ nhưng nó phải tiếp tục rẻ và đảm bảo chất lượng cao. Một vấn đề nữa là phải quan tâm đến opendata. Làm sao để thúc đẩy được? Điều đáng buồn là hiện chúng ta chưa thực sự có một cơ sở dữ liệu quốc gia nào đến nơi đến chốn, do đó phải đẩy mạnh hơn nữa.

Ngoài ra, cũng có nhiều điều cần quan tâm đến lĩnh vực nội dung số. Nền tảng, hạ tầng của chúng ta không chỉ là vấn đề về viễn thông mà còn là nền tảng về cơ sở dữ liệu, về thanh toán để tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp nội dung số phát triển. Bộ TT&TT đã ý thức rõ các bất cập, bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài. Bộ mong muốn các doanh nghiệp nội dung số, các hiệp hội liên quan cùng Bộ có tiếng nói để tháo gỡ, có giải pháp để làm việc với doanh nghiệp nước ngoài nhằm tạo nền tảng ngày càng bình đẳng hơn với các doanh nghiệp trong nước. Quan trọng nhất của việc tổng kết Luật CNTT không phải là những nhận định chúng ta đã làm được gì liên quan đến Luật mà chính là danh mục kiến nghị, đề xuất với Quốc hội liên quan đến ngành CNTT. Bộ TT&TT mong rằng trong thời gian tới nhận được sự hợp tác mạnh mẽ hơn nữa để từng bước đưa ngành CNTT tiến lên.

Theo Nhóm PV ICT - Ảnh: Thái Anh

Ictnews

Trở lên trên