Trung Quốc đang "bóp méo" số liệu thương mại?
Thặng dư thương mại của Trung Quốc bị nhiều người coi như nguồn gốc của khủng hoảng tài chính.
Nửa đầu năm nay, thặng dư thương mại chỉ còn 130 tỷ USD, thấp hơn 30% so với 1 năm trước và chưa bằng một nửa so với nửa sau năm 2008. Không chỉ thặng dư thương mại hàng hoá Trung Quốc giảm, thu nhập từ đầu tư dự trữ ngoại hối của Trung Quốc cũng đã giảm xuống.
Chuyên gia Arthur Kroeber thuộc cơ quan nghiên cứu kinh tế Dragonomics dự báo thặng dư tài khoản vãng lai có thể sẽ giảm xuống chỉ còn 5% GDP vào năm 2009 từ mức đỉnh 11% GDP ở thời điểm đỉnh cao vào năm 2007. Trung Quốc dường như đang cân bằng lại kinh tế thế giới.
Vậy số liệu của Trung Quốc chính xác đến đâu? Trên lý thuyết, con số về thặng dư thương mại của Trung Quốc với Mỹ phải tương xứng với mức thâm hụt mà phía Mỹ công bố về hoạt động của họ với Trung Quốc.
Chính phủ Trung Quốc công bố trong khoảng thời gian 6 tháng tính đến hết tháng 6/2009, thặng dư thương mại với Mỹ giảm xuống dưới 62 tỷ USD. Thế nhưng số liệu từ Mỹ lại cho thấy mức thâm hụt thương mại của Mỹ đối với Trung Quốc là 103 tỷ USD trong cùng thời kỳ.
Mức thặng dư thương mại của Trung Quốc khi so sánh với nhiều đối tác thương mại khác cũng cho thấy sự không cân xứng như vậy. Số liệu thặng dư thương mại của Trung Quốc với châu Âu chỉ bằng một nửa so với con số do châu Âu công bố. Đáng chú ý, trong nửa đầu năm 2009, Trung Quốc cho biết họ gánh chịu thâm hụt thương mại với Nhật trong khi đó Nhật công bố thông tin ngược lại.
Số liệu kinh tế do Trung Quốc công bố thường không nhất quán. Các yếu tố của GDP không được tính đến, tổng GDP của các tỉnh thường lớn hơn so với con số mà chính phủ đưa ra. Điều ấy cũng có nghĩa là số liệu thương mại của Trung Quốc không chính xác. Và sự chênh lệch thường đi theo một hướng: Trung Quốc công bố mức thặng dư thương mại thấp hơn so với các bên đối tác thương mại.
Nếu tính tổng giá trị thương mại của các bên kinh doanh với Trung Quốc (theo cơ sở dữ liệu của Phòng Thống kê Thương mại thuộc Quỹ tiền tệ quốc tế), có thể thấy thế giới chịu mức thâm hụt với Trung Quốc là 650 tỷ USD, cao gấp đôi so với mức thặng dư 295 tỷ USD do Trung Quốc công bố. Mức chênh lệch 350 tỷ USD, cao gấp 4 lần so với mức chênh lệch cách đây 10 năm. Vậy có phải Trung Quốc đang chịu mức thâm hụt thương mại lớn với sao Hỏa? Giống như một số chuyên gia kết luận Trung Quốc đang cố tình che giấu mức thặng dư thương mại lớn.
Trên thực tế, có thể có một lý giải khác cho chênh lệch giữa số liệu về thương mại do Trung Quốc công bố và số liệu do các bên đối tác đưa ra. Một trong số đó là phần lớn hàng hóa của Trung Quốc chuyển qua đường Hồng Kông. Cơ quan thống kê Trung Quốc khó có thể nắm được điểm đến cuối cùng của số hàng xuất khẩu đó, vì thế hàng hóa chuyển từ Trung Quốc sang Hồng Kông và sau đó lại tái xuất sang Mỹ thường được cơ quan thống kê coi như hàng từ Trung Quốc đại lục xuất sang Hồng Kông.
Ngược lại, nhân viên hải quan của nước nhập khẩu có thể dễ dàng kiểm tra nguồn gốc xuất xứ của hàng hoá, do vậy Mỹ có thể nắm được chắc chắn số hàng đó được nhập từ Trung Quốc. Giống như vậy, hàng xuất khẩu từ Mỹ vào Trung Quốc mà đi qua đường Hồng Kông sẽ được coi như hàng xuất sang Hồng Kông, trong khi đó Trung Quốc lại tính rằng đó là hàng nhập khẩu từ Mỹ.
Các nhà tái xuất Hồng Kông cũng đóng góp thêm vào đó 25% mặt hàng xuất khẩu của họ, điều này làm gia tăng khoảng cách giữa giá trị xuất khẩu của Trung Quốc với giá trị nhập khẩu ngay tại nước mình.
Hậu quả số liệu thống kê chính thức nói quá về mức thâm hụt của Mỹ và nhiều đối tác thương mại khác với Trung Quốc còn phía Trung Quốc hạ thấp mức thặng dư của mình.
Nếu hàng tái xuất từ Hồng Kông được gộp vào hàng xuất từ Trung Quốc sang Mỹ, mức chênh lệch thương mại giữa số liệu do Trung Quốc đưa ra và Mỹ công bố giảm xuống một nửa. Mức chênh lệch như vậy vẫn còn rất lớn và không đủ để giải thích tại sao thặng dư thương mại toàn cầu của Trung Quốc (tính cả hoạt động thương mại với Hồng Kông) thấp hơn mức thương mại song phương do thế giới đưa ra.
Một yếu tố nữa đó là các nước báo cáo về xuất nhập khẩu dựa trên hoạt động ngoại thương. Nhập khẩu được tính bằng chi phí bảo hiểm và vận tải, trong khi đó xuất khẩu lại dựa trên điều kiện FOB tức là không bao gồm các loại chi phí như vậy.
Một nhà nhập khẩu thường thể hiện giá trị hàng xuất tại điểm đến cao hơn 5-6% so với giá trị của nó tại nước xuất hàng. Nếu không tính đến chi phí tàu biển thì thặng dư của Trung Quốc sẽ lớn hơn nhưng thâm hụt thương mại của các bên tham gia lại nhỏ đi.
Vì vậy mà chính phủ Trung Quốc đã đưa ra báo cáo về thặng dư thương mại nhập khẩu dựa trên điều kiện giá FOB như là một phần của các báo cáo cán cân thanh toán trong nửa đầu năm. Năm 2008 là 360 tỷ đô, lớn hơn 65 tỷ đô so với hoạt động ngoại thương.
Nghiên cứu năm 2007 bởi Bộ Tài chính Mỹ đã điều chỉnh lại các thông số thương mại của Trung Quốc với hơn 100 nước trên thế giới trong đó có tính đến hàng tái xuất qua Hồng Kông nhưng không bao gồm chi phí tàu biển, bảo hiểm cũng như phần lãi trả cho các nhà tái xuất Hồng Kông.
Nghiên cứu này sau đó đã cho thấy thặng dư thương mại của Trung Quốc năm 2005 tăng thêm 75 tỷ USD, con số thâm hụt thương mại của thế giới trong hoạt động kinh doanh với Trung Quốc giảm 140 tỷ USD, như vậy mức chênh lệch của hai con số được công bố giảm từ hơn 300 tỷ USD xuống 90 tỷ USD.
Con số chênh lệch phản ánh biến động của dòng vốn ngầm chứ không phải ý định của chính phủ Trung Quốc trong việc công bố giảm thặng dư thương mại. Để tránh bị kiểm soát về vốn và có thể chuyển tiền ra khỏi Trung Quốc, các công ty công bố giá trị hàng hóa xuất khẩu thấp hơn giá trị thật và khai tăng giá trị hàng hóa nhập khẩu. Các công ty sử dụng nhiều cách để chuyển lợi nhuận sang những công ty liên kết ở những khu vực chịu mức thuế thấp như Hồng Kông.
Dòng tiền này sau đó trở lại Trung Quốc dưới danh nghĩa tiền đầu tư trực tiếp nước ngoài để tận dụng lợi thế thuế ưu đãi. Sự dịch chuyển ngầm của dòng vốn như vậy sẽ tăng dần. Nếu kinh tế Trung Quốc hồi phục mạnh hơn các nước khác của thế giới, các công ty xuất khẩu sẽ có thêm nhiều động lực để khai tăng các hóa đơn xuất khẩu như một cách đưa dòng tiền nước ngoài vào Trung Quốc. Điều này cho thấy thặng dư thương mại Trung Quốc đang giảm nhanh như chính phủ nước này tuyên bố.
Thặng dư thương mại của Trung Quốc và thặng dư tài khoản vãng lai thực tế cao hơn so với con số của chính phủ Bắc Kinh công bố tuy nhiên thấp hơn nhiều so với con số do Mỹ và nhiều đối tác thương mại khác công bố. Tuy nhiên điều quan trọng đối với kinh tế toàn cầu đó không phải là quy mô chính xác của thặng dư thương mại Trung Quốc mà là thặng dư thương mại đang giảm mạnh.
Theo Economist
Ngọc Diệp