Vì sao thực dưỡng Ohsawa được nhiều người tin là thần dược trị ung thư nhưng BS không ủng hộ?
Ở Việt Nam, khoảng chục năm gần đây thực dưỡng nổi lên rầm rộ như một phong trào, trong đó nổi bật nhất là thực dưỡng Ohsawa/gạo lứt muối mè.
Nhiều người, nhất là phụ nữ còn tôn sùng phương pháp thực dưỡng Ohsawa như thần dược, có thể phòng ngừa và chữa nhiều bệnh như tiểu đường, tim mạch, ung thư...
Ohsawa
Phong trào này đưa ra thông tin phục hồi cho bệnh nhân có tiên lượng xấu sau khi áp dụng thực dưỡng đã khỏe hẳn để chứng minh tính thuyết phục. Vì vậy nó nhận được rất nhiều quan tâm của bệnh nhân lựa chọn chế độ dinh dưỡng khi điều trị.
Nhưng thực ra, trên thế giới, từ cách đây hơn 200 năm, thực dưỡng đã được một bác sĩ người Đức tên là Christophe Hufeland giới thiệu.
Ông tin rằng chế độ dinh dưỡng chú trọng thực phẩm chay sẽ giúp kéo dài tuổi thọ và đảm bảo sức khỏe. Đến năm 1960, phương pháp này được phổ biến rộng rãi bởi triết gia người Nhật George Ohsawa cùng với môn đệ của ông, Michio Kushi.
Những diễn tiến xấu với bệnh nhân ung thư
Chế độ ăn uống thực dưỡng quan niệm rằng dựa trên nguyên lý âm-dương với nguyên tắc cơ bản là tiêu thụ thực phẩm theo quân bình âm-dương, hòa hợp với thiên nhiên sẽ giúp con người sống thọ hơn và tránh bệnh tật.
Ohsawa viết "Không có bệnh nào chữa được đơn giản hơn là ung thư bằng cách trở về với việc ăn uống cơ bản và tự nhiên nhất". Ông đưa ra phác đồ thực dưỡng bao gồm 10 giai đoạn hạn chế dần dần, đến giai đoạn cuối cùng thì chỉ còn ăn gạo lứt muối mè và uống nước.
Tuy nhiên, vào cuối thập kỷ 60, biến chứng nghiêm trọng đã xảy ra ở những người đang theo chế độ ăn của Ohsawa.
Hội đồng Hiệp hội Y khoa Hoa Kỳ về Thực phẩm và dinh dưỡng (American Medical Association’s Council on Foods and Nutrition) đã báo cáo những trường hợp mắc bệnh Scorbut, thiếu máu, tăng protein trong máu, hạ calci máu, xuất huyết và suy dinh dưỡng, suy thận, và thậm chí tử vong (1984).
Sau đó, chế độ ăn thực dưỡng bị phản đối và bác bỏ.
Thời gian sau, môn đệ của Ohsawa là Kushi xuất bản một số sách về chế độ thực dưỡng với những điều chỉnh bớt khắc khổ hơn.
Ông tuyên bố rằng thực hành theo chế độ này sẽ làm giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư.
Chế độ này là 40% –60% bữa ăn là ngũ cốc nguyên hạt (hữu cơ trồng và nấu tại nhà), 20% –30% là rau và 5% –10% đậu, các sản phẩm từ đậu và rau biển. Một lượng nhỏ cá, hạt hoặc quả được trồng tại địa phương. Thêm trái cây theo mùa được cho phép hàng tuần.
Thịt đỏ, gia cầm, trứng và sản phẩm sữa chỉ được cho phép ăn một lượng rất nhỏ hàng tháng. Còn đường tinh chế, chất làm ngọt nhân tạo, vitamin và bổ sung khoáng chất và các loại khác phụ gia hóa học không được ăn.
Tại sao thực dưỡng trở thành một chế độ dinh dưỡng phổ biến?
Dưới góc độ khoa học, những thành phần thực phẩm trong thực dưỡng, về cơ bản là tốt cho sức khỏe và có mối liên hệ tới phòng ngừa ung thư.
Cụ thể, ngũ cốc nguyên cám và rau củ - trọng tâm của chế độ thực dưỡng, được cho thấy góp phần làm giảm nguy cơ nhiều loại ung thư như: ung thư đại trực tràng, dạ dày và nội mạc tử cung.
Theo báo cáo của American Institute for Cancer Research and World Cancer Research Fund (1997), tăng tiêu thụ rau và trái cây từ 250 gr đến 400 gr/ngày cho thấy có sự liên hệ với việc giảm 23% nguy cơ ung thư.
Còn thịt đỏ có mối liên hệ với nhiều bệnh ung thư như: ung thư đại tràng, trực tràng, tuyến tiền liệt và tuyến tụy. Trong thực dưỡng, thịt đỏ được giảm tối đa.
Trong thực dưỡng, thịt đỏ được giảm tối đa.
Mối liên hệ giữa thành phần thực phẩm của chế độ thực dưỡng và nguy cơ ung thư dễ dẫn đến suy luận rằng thực dưỡng giúp phòng ngừa ung thư. Nhưng trên thực tế, chưa có đủ bằng chứng và báo cáo tổng hợp cho thấy điều này.
Thực dưỡng có hiệu quả trong điều trị ung thư không?
KHÔNG có bằng chứng cho thấy việc sử dụng chế độ thực dưỡng có hiệu quả trong chữa trị ung thư.
Ngược lại, thực dưỡng còn có thể khiến người bệnh ung thư bị suy nhược cơ thể do thiếu dinh dưỡng.
Suy dinh dưỡng là một vấn đề thường gặp ở bệnh nhân ung thư, dẫn đến nhập viện kéo dài, giảm đáp ứng với điều trị, tăng tác dụng phụ, suy giảm chất lượng cuộc sống và tiên lượng xấu hơn.
Do đó, người bệnh bệnh ung thư cần đảm bảo chế độ ăn cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng. Bao gồm đạm, đường và tinh bột, chất béo, nước, vitamin và khoáng cần thiết để đáp ứng cân nặng và lượng calorie cần thiết.
Về hiệu quả thực dưỡng, mới chỉ có duy nhất bằng chứng cho thấy chế độ ăn giảm chất béo có thể giúp phòng ngừa tái phát cho bệnh nhân ung thư vú giai đoạn đầu.
Tuy vậy, chỉ giảm chất béo, còn việc đảm bảo cân nặng, calorie nạp vào và các chất dinh dưỡng còn lại vẫn cần thiết.
Một nghiên cứu tổng hợp so sánh thực dưỡng với chế độ ăn bình thường cho thấy: chế độ thực dưỡng thiên lệch nhiều về gạo lứt và hạn chế thực phẩm cung cấp nhiều đạm như thịt, cá, trứng, sữa, đậu tương dẫn đến việc thiếu hụt lượng calorie, đạm, vitamin D, vitamin B1, B2, B3, B12 và canxi cần thiết cho cơ thể.
Hơn thế nữa, chế độ ăn uống thực dưỡng có nhiều muối natri và phosphor dẫn tới các nguy cơ về xương và tim mạch, làm giảm sức khỏe bệnh nhân và chất lượng sống.
Chính vì thế, mặc dù phong trào thực dưỡng rất rầm rộ ngoài xã hội nhưng bác sĩ ung thư, chuyên gia dinh dưỡng và các tổ chức ung thư không khuyến khích.
Lời khuyên của nhà khoa học
Với những chứng cứ nêu trên, rất tiếc, cho đến nay về mặt khoa học vẫn không có bằng chứng nào cho thấy thực dưỡng có hiệu quả trong điều trị ung thư.
Còn những bằng chứng liên quan tới phòng ngừa ung thư cũng hoàn toàn chưa đủ. Thậm chí ăn thực dưỡng đến cấp 10 còn gây hại cho người bệnh như đã nói ở trên.
Do đó, người bệnh nên dựa theo hướng dẫn của bác sĩ và đội ngũ y tế để lựa chọn chế độ dinh dưỡng phù hợp nhất cho bản thân, với điều kiện đầy đủ lượng và chất để đáp ứng điều trị tốt hơn.
Người khỏe mạnh, muốn thực hành thực dưỡng cần cân nhắc và điều chỉnh khi áp dụng để đảm bảo đầy đủ chất dinh dưỡng.
Bất ngờ về Ohsawa
Ohsawa – tên khai sinh Nyoichi Sakurazawa –sinh ra ở Nhật vào năm 1893 và chuyển sang sống tại Paris vào khoảng thế chiến thứ 2. George Ohsawa không phải là giáo sư, và cũng không được đào tạo chính quy trong khoa học và y tế.
Ông không tham gia nghiên cứu khoa học mà dành phần lớn cuộc đời viết sách và phổ biến về triết lý và lối sống thực dưỡng. Những gì ông viết trên sách không dựa trên dữ liệu thực nghiệm hay hệ thống mà phần lớn là quan điểm và quan sát cá nhân.
Ông mất vào năm 74 tuổi vì bệnh tim.
Tài liệu tham khảo
[1] Kushi, M. & Jack, A. (1986) The Book of Macrobiotics: The Universal Way of Health, Happiness, and Peace. Japan Publications New York, NY.
[2] Kushi, L. H., Cunningham, J. E., Hebert, J. R., Lerman, R. H., Bandera, E. V., & Teas, J. (2001). The macrobiotic diet in cancer. J Nutr, 131(11 Suppl), 3056S-3064S. doi:10.1093/jn/131.11.3056S
[3] Kotzsch, R.E. (1985) A corner of history: Hufeland. Macrobiotics Yesterday and Today Japan Publications New York, NY
[4] Unproven methods of cancer managememt: macrobiotic diets. (1984). CA Cancer J Clin, 34(1), 60-63.
[5] Jacobs, D. R., Jr., Marquart, L., Slavin, J., & Kushi, L. H. (1998). Whole-grain intake and cancer: an expanded review and meta-analysis. Nutr Cancer, 30(2), 85-96. doi:10.1080/01635589809514647
[6] World Cancer Research Fund & American Institute for Cancer Research (1997) Food, Nutrition and the Prevention of Cancer: A Global Perspective American Institute for Cancer Research Washington, DC.
[7] Sierpina, V., Levine, L., McKee, J., Campbell, C., Lian, S., & Frenkel, M. (2015). Nutrition, Metabolism, and Integrative Approaches in Cancer Survivors. Seminars in Oncology Nursing, 31(1), 42-52. doi:https://doi.org/10.1016/j.soncn.2014.11.005
[8] National Cancer Institute – Nutrition in Cancer are (PDQ®) https://www.cancer.gov/about-cancer/treatment/side-effects/appetite-loss/nutrition-pdq
[9] Blackburn, G. L., & Wang, K. A. (2007). Dietary fat reduction and breast cancer outcome: results from the Women’s Intervention Nutrition Study (WINS). The American Journal of Clinical Nutrition, 86(3), 878S-881S. doi:10.1093/ajcn/86.3.878S
[10] Harmon, B. E., Carter, M., Hurley, T. G., Shivappa, N., Teas, J., & Hebert, J. R. (2015). Nutrient Composition and Anti-inflammatory Potential of a Prescribed Macrobiotic Diet. Nutr Cancer, 67(6), 933-940. doi:10.1080/01635581.2015.1055369
[11] American Cancer Society. Benefits of good nutrition during cancer treatment
https://www.cancer.org/treatment/survivorship-during-and-after-treatment/staying-active/nutrition/nutrition-during-treatment/benefits.html
Trí thức trẻ